Nhục thân của thiền sư
Như Trí ở chùa Tiêu (Bắc Ninh) mang đậm màu sắc tâm linh, nhưng với nhãn quan
khoa học, người đời nay đặt câu hỏi rằng, bằng phương pháp gì và con đường nào
mà thi thể của ông không bị thời gian hủy hoại?
Bí ẩn trong am cổ
Cách Hà Nội hơn 20km, trên đường đi Bắc Ninh, có
tấm biển lớn chỉ đường về chùa Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn. Ngôi
chùa này vốn có tên Thiên Tâm, dựng từ thời Tiền Lê, là nơi thiền sư Vạn Hạnh tu
hành, giảng đạo và dạy dỗ Lý Công Uẩn, người khai sinh Thăng Long - Hà Nội.
Ai đã đến chùa Tiêu đều không quên ni sư Đàm
Chính, người có vẻ mặt đôn hậu và đôi mắt hiền hòa. Hơn 60 năm về trước, khi là
một thiếu nữ 17 tuổi, sư Đàm Chính đã về tu nghiệp ở chùa.
Nhục thân được phục dựng lại của thiền sư Chuyết Chuyết (chùa
Phật Tích) là một minh chứng khác cho thấy phương pháp tượng táng đặc biệt của
người Việt: sau khi thiền sư tịch, các tín đồ đã lấy dây đồng để dựng khung
xương theo thế ngồi thiền rồi tạo tượng phủ bên ngoài xương bằng chất bồi mà chủ
yếu là mạt cưa, vải, sơn ta… Pho tượng trước khi phục chế đã bị vỡ thành 342
mảnh, gồm 133 mảnh xương và 209 mảnh bồi, được phục dựng lại hình hài bằng
phương pháp Geraximov.
|
Năm 1971, cái năm mưa liên miên, cây cối mọc
nhiều trong vườn tháp, khiến nhà chùa phải bắc thang lên cắt rễ cây ăn sâu vào
tháp. Vén một nhành cây phủ tháp Viên Tuệ, ni sư thấy một viên gạch màu đỏ, trên
có ghi tên và năm tịch của người trong tháp. Qua khe nứt, ni sư kinh hãi nhận
thấy một người ngồi thiền trong tháp, nhưng ni sư bịt chặt kẽ hở và giữ kín
chuyện, mãi tới năm 1996 mới thưa lại với Hòa thượng Thích Thanh Từ - Trụ trì
Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt, khi tới thăm chùa Tiêu Sơn. Ni sư ngỏ lời nhờ Hòa
thượng giúp đỡ và người của Thiền viện Trúc Lâm ngỏ lời với PGS Nguyễn Lân
Cường.
Lần theo văn tự trên viên gạch đính trên tháp,
được biết rằng, người ngồi trong tháp có đạo hiệu là Ma ha đại Tỳ kheo Như Trí;
tháp được kính cẩn hoàn thành vào ngày lành mùa Xuân niên hiệu Bảo Thái thứ 4
(1723) triều Lê Dục Tông. Thân thế sự nghiệp của Thiền sư Như Trí đến nay chưa
tìm thấy sử sách, chỉ xuất hiện trong một vài tác phẩm văn Nôm chưa có dịp kiểm
chứng. Những tư liệu đó cho biết, ngài có cùng một số huynh đệ có cùng chữ Như,
phụ giúp Thiền sư Chân Nguyên sao lục ấn hành những tác phẩm của thời Trần còn
sót lại trong nhân gian như Khóa Hư Lục, Tam Tổ Trúc Lâm, Kiến Tánh Thành Phật
và đặc biệt là năm 1715 in lại bộ Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục - một bộ sách rất
có giá trị về văn hóa Phật giáo Việt Nam.
Theo Thượng tọa Thích Thông Phương – Trụ trì
Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử thì “Thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của Thiền sư
Chân Nguyên, một thiền sư thời Hậu Lê có công phục hưng Thiền phái Trúc Lâm, do
sư tổ Trúc Lâm – vua Trần Nhân Tông mở ra và từng trụ trì chùa Long Động ở Yên
Tử, nay là Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Hiện nay ở đây còn tháp đá tôn thờ Thiền
sư, gọi là tháp Tịch Quang”. Thượng tọa Thích Thông Phương cũng nhận xét rằng,
Thiền sư Như Trí đã an nhiên trước sinh tử, thị tịch trong tư thế khiết già và
để lại nhục thân cho đến ngày nay, càng làm sáng tỏ dòng Thiền Trúc Lâm trên đất
Việt và cho thấy chư Tổ người Việt tu hành rất có kết quả cao sâu, đúng với chân
lý bình đẳng mà Phật đã dạy.
Ngày 5/3/2003, nhục thân Thiền sư Như Trí được
đưa ra khỏi tháp, trong tư thế bán già, tay kết ấn tam muội, nhưng vì ẩm mốc nên
bị mục rớt phần cẳng tay, nhiều phần hư hỏng nặng, có nhiều vỏ trứng của các
loài côn trùng hoặc bò sát nằm rải rác quanh bệ sen làm bằng gốm non màu đỏ.
Điều khác biệt là trong lớp bồi không có thếp
vàng, thếp bạc, nhưng trong lớp bồi lại có những miếng đồng mỏng, có tác dụng đỡ
cho nhục thân Ngài qua nhiều năm không bị gục xuống. Khi PGS Cường tu bổ pho
tượng táng này là ông đã phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm trong
bụng thiền sư. Ông khẳng định: “Tượng được phủ kín bằng lớp bồi, phía dưới lại
có đáy gốm hình tòa sen, do đó, khối vật chất này không thể lọt vào ổ bụng
được”.
Ông Cường và các nhà khoa học lấy mẫu chuyển đến
Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia để phân tích bằng phương pháp phổ
nhiễu xạ tia X, kết quả cho thấy, hợp chất lấy từ bụng thiền sư Như Trí chính là
các chất còn lại của phần phủ tạng. Như vậy, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam
chúng ta phát hiện và chứng minh được có phần nội tạng trong bụng Thiền sư, tức
là thi thể Thiền sư được ướp theo một cách thức riêng, không hề giống với cách
ướp xác của người Ai Cập.
Việc tu bổ pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí
đã hoàn thành, Ngài đã trở lại dáng vẻ gần như ban đầu và tiếp tục ngồi “kiết
già” trong nhà thờ Tổ với sự bảo quản cẩn thận của khoa học hiện đại.
Tuy nhiên, câu hỏi lớn đặt ra với các nhà khoa
học là, sự xâm hại nghiêm trọng của thời tiết, vi khuẩn, côn trùng hàng mấy trăm
năm, vì sao ngài vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí cả khối vật chất của phủ tạng cũng
vẫn còn nguyên vẹn?
Yếu quyết tự ướp xác
Theo nhà Phật, người chết mà để lại những phần
không bị thiêu hủy sau khi hỏa táng thì gọi là xá lợi. Xá lợi ấy nhiều khi cũng
rất đặc biệt, ví như cái lưỡi của ngày Duy Ca Mật, một vị thuyết pháp người Ấn
Độ, hay như quả tim của vị danh tăng Thích Quảng Đức để lại do tự thiêu để phản
đối chế độ Mỹ - ngụy ở miền Nam Việt Nam. Theo truyền thuyết kể lại thì, đức
Phật sau khi viên tịch cũng để lại xá lợi là những viên ngọc ngũ sắc mà ngay cả
nhiệt độ rất cao cũng không thiêu hủy được.
Nếu là những bậc chân tu, sau khi luyện được tâm
thanh tịnh thì họ đạt được ngũ thông hoặc lục thông. Tai họ có thể nghe được âm
thanh cực nhỏ hoặc từ rất xa; mắt nhìn được xa những vật rất nhỏ, tâm có thể đọc
được ý nghĩ của người khác. Tuy nhiên, các gốc của Phật giáo không phải là để
đạt được ngũ thông, lục thông mà là để chuyển hóa cái tham, sân, si trong con
người mình đến chỗ an nhiên, thanh tịnh. Để dù mắt thấy sắc, mũi thấy mùi, tai
nghe rõ… nhưng trong tâm không nảy sinh bất kỳ một ý niệm nào ưa thích hay ghét
bỏ, phiền não. Nếu tu được đến mức độ như vậy thì quá khứ hay hiện tại sẽ không
còn ngăn cách nữa. Tất cả những yếu quyết để tự ướp xác này là một phương pháp
bí truyền có tên là “lửa tam muội”.
Tương truyền, lửa tam muội nghĩa là một ngọn lửa
huyền bí, là thứ năng lượng đặc biệt của con người. Người ta dùng hô hấp để kích
động các bí huyệt trong cơ thể, để lúc nào cũng cảm thấy ấm áp như được khoác
một bộ áo dày, mà người Tây Tạng gọi là “mặc áo tiên”. Khi đã nhập định, người
ngồi thiền cảm thấy thân tâm thoải mái, an lạc, dễ chịu mà người ta hay gọi là
“sống trong tiên cảnh”.
Cũng như khinh công, luyện lửa tam muội là một
phương pháp bí truyền, phải có thầy chỉ dẫn, chứ không thể học theo sách được.
Thầy phải là người đã luyện thành công lửa tam muội mới có thể chỉ dạy được, để
biết rõ các nguy hiểm trên đường tập luyện, vì một sai lầm có thể đưa đến điên
loạn hay tử vong. Hành giả phải có một thân thể cường tráng, mới có thể khắc
phục được những khó khăn bước đầu.
Cũng như mọi phương pháp bí truyền, người ta
thường thêu dệt nhiều điều huyền hoặc, khó kiểm chứng. Tuy nhiên, đằng sau những
điều khó tin này, vẫn ẩn tàng một cái gì đó cần gạn lọc để tìm ra tinh hoa ở bên
trong.
Thông thường, môn sinh ngồi cho thật vững vàng,
thoải mái. Cách ngồi phổ biến là kiết già hoặc bán già. Sau khi tập ngồi thuần
thục, chân tay hết nhức mỏi thì bắt đầu tập thở cho thật đều, thật sâu trước khi
hít thở theo nghi thức. Như vậy, môn sinh ngồi thế kiết già bắt chéo hai chân,
bàn tay đặt lên đầu gối, ngón cái, ngón trỏ và ngón út thẳng ra, ngón giữa và
ngón áp út thu vào lòng bàn tay. Thoạt đầu, họ thở cho thông hai lỗ mũi, sau đó
tập trung tư tưởng vào hơi thở. Khi thở ra, họ tưởng tượng mình đang xả bỏ các
tính xấu như tham lam, ích kỷ, ngạo mạn, hận thù. Khi hít vào, họ tưởng tượng
mình đang thu vào những tính tốt như từ, bi, hỷ, xả, thanh tịnh. Tiếp theo, họ
hít vào, dồn khí xuống bụng, nín thở trong một thời gian ngắn, trước khi từ từ
thở ra. Cứ tập như thế, đến khi cơ thể hoàn toàn thả lỏng, tâm trí dứt hết các
nỗi lo lắng, ưu phiền, hoàn toàn thoải mái tự tại.
Nếu đạt yêu cầu, môn sinh được chấp nhận cho làm
lễ điểm đạo truyền pháp. Họ sẽ bỏ bộ áo dày, chỉ khoác một tấm vải mỏng. Và từ
đó, họ không ngồi gần lửa, tìm đến nơi hoang vu, thanh vắng, có độ cao trên bốn
ngàn thước để hít thở không khí trong lành. Bí kíp ghi rõ: “Không được tập luyện
trong nhà cửa, xóm làng, vì không khí ở đó bị ô nhiễm củi lửa, có những rung
động không tốt, ngoại cảnh làm xáo trộn tâm trí của hành giả”. Hành giả sẽ sống
cô đơn ở nơi hoang vu, bỏ hết phiền não cõi trần.
Sau khi hợp nhất khí huyết, môn sinh tưởng tượng
có một quả cầu lửa to bằng nắm tay sẽ sáng rực ở rốn, mỗi hơi thở sẽ như ống bễ
quạt cho ngọn lửa này cháy to hơn, mỗi lần dồn khí xuống sẽ kích thích quả cầu
này tỏa nhiệt mạnh mẽ.
Hít hơi vào, giữ hơi lại và thở hơi ra đều nương
theo một câu chú để giữ ngọn lửa đó không tắt. Nhờ trước đây đã luyện thành thục
cách quán tưởng xả bỏ tham sân si khi thở ra, và thu từ bi hỉ xả khi hít vào nên
tâm được thanh tịnh. Nếu đốt cháy giai đoạn, cẩu thả luyện khí mà chưa điều ngự
được tâm, thì vọng niệm nảy sinh, luồng hơi nóng sẽ chạy loạn xạ vào các kinh
mạch, khiến môn sinh có thể điên loạn và tử vong.
Nếu tâm không còn vọng động, môn sinh có thể dùng
tư tưởng hướng dẫn luồng hơi nóng đi thẳng vào các thần mạch.
Đỉnh cao của phương pháp luyện lửa tam muội là tự
thiêu đốt đi lớp mỡ trong cơ thể mình và chỉ để lại những phần bất hoại với thời
gian. Khi những thiền sư đốt đến giọt năng lượng cuối cùng thì cũng là lúc họ
vĩnh biệt cõi trần. Chính vì thế, nhục thân của họ không bị phân hủy và trở nên
bất tử.
Người đời vẫn thường kể lại câu chuyện, trước khi
qua đời, thiền sư Vũ Khắc Minh đã chuẩn bị sẵn cho mình một am nhỏ trên vách
núi. Khi bước vào trong am, thiền sư dặn dò các đệ tử của mình rằng: “Mang cho
ta một chum nước uống và một chum dầu để thắp. Khi nào thấy dứt tiếng mõ hãy mở
cửa am ra. Nếu thấy thi thể của ta đã hỏng thì dùng đất lấp am đi, còn ngược lại
thì dùng sơn ta mà bả lên thi thể”.
Nhiều chuyên gia cho rằng, thiền sư Vũ Khắc Minh
đã luyện được lửa tam muội tới mức tối thượng và dùng nó để bước vào cõi hư vô,
bất tử. Như lời hòa thượng Thích Thanh Tứ nói lúc sinh thời thì, đây là kết quả
của một quá trình rất dài chứng nghiệm trong tu tập, loại bỏ tất cả những tạp
niệm của tâm để đạt đến sự giác ngộ viên mãn.
Năng lượng con người là một thế giới còn ẩn chứa
vô vàn những bí mật chưa được khám phá. Nhục thân của các vị thiền sư Việt có lẽ
đã gợi mở rằng, con người sở hữu một nguồn năng lượng vô hạn và khát vọng bất tử
đã tồn tại trong nhiều thế kỷ qua.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét