Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012

‘Lửa tam muội bí truyền’ kì bí trong thuật ướp xác của người Việt


Nhục thân của thiền sư Như Trí ở chùa Tiêu (Bắc Ninh) mang đậm màu sắc tâm linh, nhưng với nhãn quan khoa học, người đời nay đặt câu hỏi rằng, bằng phương pháp gì và con đường nào mà thi thể của ông không bị thời gian hủy hoại?
Bí ẩn trong am cổ
Cách Hà Nội hơn 20km, trên đường đi Bắc Ninh, có tấm biển lớn chỉ đường về chùa Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn. Ngôi chùa này vốn có tên Thiên Tâm, dựng từ thời Tiền Lê, là nơi thiền sư Vạn Hạnh tu hành, giảng đạo và dạy dỗ Lý Công Uẩn, người khai sinh Thăng Long - Hà Nội.
Ai đã đến chùa Tiêu đều không quên ni sư Đàm Chính, người có vẻ mặt đôn hậu và đôi mắt hiền hòa. Hơn 60 năm về trước, khi là một thiếu nữ 17 tuổi, sư Đàm Chính đã về tu nghiệp ở chùa.
Nhục thân được phục dựng lại của thiền sư Chuyết Chuyết (chùa Phật Tích) là một minh chứng khác cho thấy phương pháp tượng táng đặc biệt của người Việt: sau khi thiền sư tịch, các tín đồ đã lấy dây đồng để dựng khung xương theo thế ngồi thiền rồi tạo tượng phủ bên ngoài xương bằng chất bồi mà chủ yếu là mạt cưa, vải, sơn ta… Pho tượng trước khi phục chế đã bị vỡ thành 342 mảnh, gồm 133 mảnh xương và 209 mảnh bồi, được phục dựng lại hình hài bằng phương pháp Geraximov.

Năm 1971, cái năm mưa liên miên, cây cối mọc nhiều trong vườn tháp, khiến nhà chùa phải bắc thang lên cắt rễ cây ăn sâu vào tháp. Vén một nhành cây phủ tháp Viên Tuệ, ni sư thấy một viên gạch màu đỏ, trên có ghi tên và năm tịch của người trong tháp. Qua khe nứt, ni sư kinh hãi nhận thấy một người ngồi thiền trong tháp, nhưng ni sư bịt chặt kẽ hở và giữ kín chuyện, mãi tới năm 1996 mới thưa lại với Hòa thượng Thích Thanh Từ - Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt, khi tới thăm chùa Tiêu Sơn. Ni sư ngỏ lời nhờ Hòa thượng giúp đỡ và người của Thiền viện Trúc Lâm ngỏ lời với PGS Nguyễn Lân Cường.
Lần theo văn tự trên viên gạch đính trên tháp, được biết rằng, người ngồi trong tháp có đạo hiệu là Ma ha đại Tỳ kheo Như Trí; tháp được kính cẩn hoàn thành vào ngày lành mùa Xuân niên hiệu Bảo Thái thứ 4 (1723) triều Lê Dục Tông. Thân thế sự nghiệp của Thiền sư Như Trí đến nay chưa tìm thấy sử sách, chỉ xuất hiện trong một vài tác phẩm văn Nôm chưa có dịp kiểm chứng. Những tư liệu đó cho biết, ngài có cùng một số huynh đệ có cùng chữ Như, phụ giúp Thiền sư Chân Nguyên sao lục ấn hành những tác phẩm của thời Trần còn sót lại trong nhân gian như Khóa Hư Lục, Tam Tổ Trúc Lâm, Kiến Tánh Thành Phật và đặc biệt là năm 1715 in lại bộ Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục - một bộ sách rất có giá trị về văn hóa Phật giáo Việt Nam.
Theo Thượng tọa Thích Thông Phương – Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử thì “Thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của Thiền sư Chân Nguyên, một thiền sư thời Hậu Lê có công phục hưng Thiền phái Trúc Lâm, do sư tổ Trúc Lâm – vua Trần Nhân Tông mở ra và từng trụ trì chùa Long Động ở Yên Tử, nay là Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Hiện nay ở đây còn tháp đá tôn thờ Thiền sư, gọi là tháp Tịch Quang”. Thượng tọa Thích Thông Phương cũng nhận xét rằng, Thiền sư Như Trí đã an nhiên trước sinh tử, thị tịch trong tư thế khiết già và để lại nhục thân cho đến ngày nay, càng làm sáng tỏ dòng Thiền Trúc Lâm trên đất Việt và cho thấy chư Tổ người Việt tu hành rất có kết quả cao sâu, đúng với chân lý bình đẳng mà Phật đã dạy.
Ngày 5/3/2003, nhục thân Thiền sư Như Trí được đưa ra khỏi tháp, trong tư thế bán già, tay kết ấn tam muội, nhưng vì ẩm mốc nên bị mục rớt phần cẳng tay, nhiều phần hư hỏng nặng, có nhiều vỏ trứng của các loài côn trùng hoặc bò sát nằm rải rác quanh bệ sen làm bằng gốm non màu đỏ.
Điều khác biệt là trong lớp bồi không có thếp vàng, thếp bạc, nhưng trong lớp bồi lại có những miếng đồng mỏng, có tác dụng đỡ cho nhục thân Ngài qua nhiều năm không bị gục xuống. Khi PGS Cường tu bổ pho tượng táng này là ông đã phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm trong bụng thiền sư. Ông khẳng định: “Tượng được phủ kín bằng lớp bồi, phía dưới lại có đáy gốm hình tòa sen, do đó, khối vật chất này không thể lọt vào ổ bụng được”.
Đưa nhục thân thiền sư Như Trí vào khám rồng.

Ông Cường và các nhà khoa học lấy mẫu chuyển đến Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia để phân tích bằng phương pháp phổ nhiễu xạ tia X, kết quả cho thấy, hợp chất lấy từ bụng thiền sư Như Trí chính là các chất còn lại của phần phủ tạng. Như vậy, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam chúng ta phát hiện và chứng minh được có phần nội tạng trong bụng Thiền sư, tức là thi thể Thiền sư được ướp theo một cách thức riêng, không hề giống với cách ướp xác của người Ai Cập.
Việc tu bổ pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí đã hoàn thành, Ngài đã trở lại dáng vẻ gần như ban đầu và tiếp tục ngồi “kiết già” trong nhà thờ Tổ với sự bảo quản cẩn thận của khoa học hiện đại.
Tuy nhiên, câu hỏi lớn đặt ra với các nhà khoa học là, sự xâm hại nghiêm trọng của thời tiết, vi khuẩn, côn trùng hàng mấy trăm năm, vì sao ngài vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí cả khối vật chất của phủ tạng cũng vẫn còn nguyên vẹn?
Yếu quyết tự ướp xác
Theo nhà Phật, người chết mà để lại những phần không bị thiêu hủy sau khi hỏa táng thì gọi là xá lợi. Xá lợi ấy nhiều khi cũng rất đặc biệt, ví như cái lưỡi của ngày Duy Ca Mật, một vị thuyết pháp người Ấn Độ, hay như quả tim của vị danh tăng Thích Quảng Đức để lại do tự thiêu để phản đối chế độ Mỹ - ngụy ở miền Nam Việt Nam. Theo truyền thuyết kể lại thì, đức Phật sau khi viên tịch cũng để lại xá lợi là những viên ngọc ngũ sắc mà ngay cả nhiệt độ rất cao cũng không thiêu hủy được.
Nếu là những bậc chân tu, sau khi luyện được tâm thanh tịnh thì họ đạt được ngũ thông hoặc lục thông. Tai họ có thể nghe được âm thanh cực nhỏ hoặc từ rất xa; mắt nhìn được xa những vật rất nhỏ, tâm có thể đọc được ý nghĩ của người khác. Tuy nhiên, các gốc của Phật giáo không phải là để đạt được ngũ thông, lục thông mà là để chuyển hóa cái tham, sân, si trong con người mình đến chỗ an nhiên, thanh tịnh. Để dù mắt thấy sắc, mũi thấy mùi, tai nghe rõ… nhưng trong tâm không nảy sinh bất kỳ một ý niệm nào ưa thích hay ghét bỏ, phiền não. Nếu tu được đến mức độ như vậy thì quá khứ hay hiện tại sẽ không còn ngăn cách nữa. Tất cả những yếu quyết để tự ướp xác này là một phương pháp bí truyền có tên là “lửa tam muội”.
Tương truyền, lửa tam muội nghĩa là một ngọn lửa huyền bí, là thứ năng lượng đặc biệt của con người. Người ta dùng hô hấp để kích động các bí huyệt trong cơ thể, để lúc nào cũng cảm thấy ấm áp như được khoác một bộ áo dày, mà người Tây Tạng gọi là “mặc áo tiên”. Khi đã nhập định, người ngồi thiền cảm thấy thân tâm thoải mái, an lạc, dễ chịu mà người ta hay gọi là “sống trong tiên cảnh”.
Cũng như khinh công, luyện lửa tam muội là một phương pháp bí truyền, phải có thầy chỉ dẫn, chứ không thể học theo sách được. Thầy phải là người đã luyện thành công lửa tam muội mới có thể chỉ dạy được, để biết rõ các nguy hiểm trên đường tập luyện, vì một sai lầm có thể đưa đến điên loạn hay tử vong. Hành giả phải có một thân thể cường tráng, mới có thể khắc phục được những khó khăn bước đầu.
Viên gạch đính trên tháp chứa nhục thân Ngài ghi rõ: Nhục thân ở trong tháp có tên là Ma ha Đại Tỳ kheo Như Trí (theo bản dịch của PGS.TS Đỗ Thị Hảo).

Cũng như mọi phương pháp bí truyền, người ta thường thêu dệt nhiều điều huyền hoặc, khó kiểm chứng. Tuy nhiên, đằng sau những điều khó tin này, vẫn ẩn tàng một cái gì đó cần gạn lọc để tìm ra tinh hoa ở bên trong.
Thông thường, môn sinh ngồi cho thật vững vàng, thoải mái. Cách ngồi phổ biến là kiết già hoặc bán già. Sau khi tập ngồi thuần thục, chân tay hết nhức mỏi thì bắt đầu tập thở cho thật đều, thật sâu trước khi hít thở theo nghi thức. Như vậy, môn sinh ngồi thế kiết già bắt chéo hai chân, bàn tay đặt lên đầu gối, ngón cái, ngón trỏ và ngón út thẳng ra, ngón giữa và ngón áp út thu vào lòng bàn tay. Thoạt đầu, họ thở cho thông hai lỗ mũi, sau đó tập trung tư tưởng vào hơi thở. Khi thở ra, họ tưởng tượng mình đang xả bỏ các tính xấu như tham lam, ích kỷ, ngạo mạn, hận thù. Khi hít vào, họ tưởng tượng mình đang thu vào những tính tốt như từ, bi, hỷ, xả, thanh tịnh. Tiếp theo, họ hít vào, dồn khí xuống bụng, nín thở trong một thời gian ngắn, trước khi từ từ thở ra. Cứ tập như thế, đến khi cơ thể hoàn toàn thả lỏng, tâm trí dứt hết các nỗi lo lắng, ưu phiền, hoàn toàn thoải mái tự tại.
Nếu đạt yêu cầu, môn sinh được chấp nhận cho làm lễ điểm đạo truyền pháp. Họ sẽ bỏ bộ áo dày, chỉ khoác một tấm vải mỏng. Và từ đó, họ không ngồi gần lửa, tìm đến nơi hoang vu, thanh vắng, có độ cao trên bốn ngàn thước để hít thở không khí trong lành. Bí kíp ghi rõ: “Không được tập luyện trong nhà cửa, xóm làng, vì không khí ở đó bị ô nhiễm củi lửa, có những rung động không tốt, ngoại cảnh làm xáo trộn tâm trí của hành giả”. Hành giả sẽ sống cô đơn ở nơi hoang vu, bỏ hết phiền não cõi trần.
Sau khi hợp nhất khí huyết, môn sinh tưởng tượng có một quả cầu lửa to bằng nắm tay sẽ sáng rực ở rốn, mỗi hơi thở sẽ như ống bễ quạt cho ngọn lửa này cháy to hơn, mỗi lần dồn khí xuống sẽ kích thích quả cầu này tỏa nhiệt mạnh mẽ.
Hít hơi vào, giữ hơi lại và thở hơi ra đều nương theo một câu chú để giữ ngọn lửa đó không tắt. Nhờ trước đây đã luyện thành thục cách quán tưởng xả bỏ tham sân si khi thở ra, và thu từ bi hỉ xả khi hít vào nên tâm được thanh tịnh. Nếu đốt cháy giai đoạn, cẩu thả luyện khí mà chưa điều ngự được tâm, thì vọng niệm nảy sinh, luồng hơi nóng sẽ chạy loạn xạ vào các kinh mạch, khiến môn sinh có thể điên loạn và tử vong.
Nếu tâm không còn vọng động, môn sinh có thể dùng tư tưởng hướng dẫn luồng hơi nóng đi thẳng vào các thần mạch.
Đỉnh cao của phương pháp luyện lửa tam muội là tự thiêu đốt đi lớp mỡ trong cơ thể mình và chỉ để lại những phần bất hoại với thời gian. Khi những thiền sư đốt đến giọt năng lượng cuối cùng thì cũng là lúc họ vĩnh biệt cõi trần. Chính vì thế, nhục thân của họ không bị phân hủy và trở nên bất tử.
Người đời vẫn thường kể lại câu chuyện, trước khi qua đời, thiền sư Vũ Khắc Minh đã chuẩn bị sẵn cho mình một am nhỏ trên vách núi. Khi bước vào trong am, thiền sư dặn dò các đệ tử của mình rằng: “Mang cho ta một chum nước uống và một chum dầu để thắp. Khi nào thấy dứt tiếng mõ hãy mở cửa am ra. Nếu thấy thi thể của ta đã hỏng thì dùng đất lấp am đi, còn ngược lại thì dùng sơn ta mà bả lên thi thể”.
Nhiều chuyên gia cho rằng, thiền sư Vũ Khắc Minh đã luyện được lửa tam muội tới mức tối thượng và dùng nó để bước vào cõi hư vô, bất tử. Như lời hòa thượng Thích Thanh Tứ nói lúc sinh thời thì, đây là kết quả của một quá trình rất dài chứng nghiệm trong tu tập, loại bỏ tất cả những tạp niệm của tâm để đạt đến sự giác ngộ viên mãn.
Năng lượng con người là một thế giới còn ẩn chứa vô vàn những bí mật chưa được khám phá. Nhục thân của các vị thiền sư Việt có lẽ đã gợi mở rằng, con người sở hữu một nguồn năng lượng vô hạn và khát vọng bất tử đã tồn tại trong nhiều thế kỷ qua.

Theo PetroTimes

Ngôi chùa chưa bao giờ đặt hòm công đức

 Ngôi chùa linh thiêng, cổ kính ở vùng Kinh Bắc chưa bao giờ đặt hòm công đức, không đốt vàng mã, không tiếp nhận khách về chiêm bái đội quả với “mâm cao, cỗ đầy”.

 
Chuyện hiếm có giữa đời thường, chuyện cũng lạ khi mà hiện nay các lễ hội và một số di tích lịch sử đang nhuốm màu thị trường khiến các cơ quan quản lý "đau đầu" thì vẫn còn những ngôi chùa như vậy. Chùa Tiêu ngày ngày vẫn có sức hút đặc biệt với đông đảo du khách về chiêm bái, cũng là nguyên nhân níu chân chúng tôi tìm hiểu rõ ngọn ngành.

Có gì khác biệt khi không đặt hòm công đức?

Ngày 9/3 chúng tôi về chùa Tiêu, Thứ bảy nên lượng khách về chiêm bái và lễ chùa như đông hơn ngày thường. Hơn 20 xe ô tô lớn nhỏ từ các tỉnh phía Bắc nối đuôi nhau trong bãi gửi. Đoạn đường dài dẫn vào chùa tịnh không một hàng nào bán vàng mã hay tổ chức dịch vụ đổi tiền lẻ. Cũng có một số khách lạ tìm mua tiền, vàng mã thì đều được các chủ bán hàng thản nhiên cho biết ở đây không có những dịch vụ này.

Dù khá đông du khách nhưng chùa Tiêu vẫn toát lên sự rộng, thoáng trong u tịch. Gian chính điện, đường lên tam bảo, nhà thờ tổ đều cheo leo dựa lưng vào triền núi. Lạ thay, trong hàng trăm pho tượng giữa hàng chục cửa ra vào đều không hề có đặt hòm tiền công đức như nhiều nơi mà chúng tôi vẫn gặp. Cũng không thấy bày tiền vàng mã trên các ban thờ, dưới chân các pho tượng không hề có những đồng tiền lẻ. Như sự lạ trước đời thường, chúng tôi đã tìm gặp nhà sư trụ trì chùa Tiêu.

Ni trưởng trụ trì chùa Tiêu, hiệu Thích Đàm Chính bây giờ đã ngoài 85 tuổi nhưng còn thật minh mẫn và thông tuệ, cụ nhớ lại hơn 60 năm trước tiểu về đây chùa đã vậy. Là nhà chùa không để hòm công đức, cũng không nhận lễ vật theo kiểu “mâm cao, cỗ đầy”. Ngay từ khi được tín nhiệm giữ trọng trách Ni trưởng cụ đã phát nguyện trước ban thờ Tam Bảo là sẽ không đặt hòm tiền công đức ở bất kỳ chỗ nào trong chùa. Khuyến cáo cùng tăng ni, phật tử trên mỗi bát hương chỉ nên thỉnh một nén, không dùng tiền giả (tiền vàng mã) và tiền trần tục dâng lên cửa chùa. Thói quen ấy giờ đã thành lệ chung khi du khách về chiêm bái và lễ tại chùa Tiêu, Ni trưởng trụ trì cho biết.

 Cổng vào chùa Tiêu.

Lấy tiền đâu để xây dựng và tu bổ chùa?

Sư cụ trụ trì chùa Tiêu bộc bạch: Gần đây, nhân dân địa phương cũng băn khoăn và ái ngại, rằng không nhận tiền công đức, tiền giọt dầu, nén nhang thì lấy đâu mà tu bổ xây dựng nhà chùa? Sư cụ cũng lại hỉ hả nói rõ nguyên nhân: Gác chuông, nhà khách, nhà Tổ… vẫn được tu bổ và xây mới khang trang như hiện nay là do những lần phát tâm tự nguyện. Mỗi lần sửa chữa hay xây dựng nhà chùa báo cáo với địa phương kế hoạch, lễ phát tâm gọn gàng đơn giản, dù một li một lai của những người tự tâm đóng góp nhà chùa đều nhận. Và chỉ nhận tiền đủ làm, sau đó kính cáo hết thời hạn công đức.

Mới có chuyện, mấy năm trước có một doanh nghiệp ở Hà Nội cúng tiến vào chùa một khoản tiền khá lớn để xây dựng tháp chuông, nhà chùa đã làm xong công trình nên không nhận. Đôi bên co kéo mãi, cuối cùng sư cụ đành phải nói “dỗi” với vị đại diện doanh nghiệp: Nếu cố tình để lại tiền cho nhà chùa thì mời mang vào ủy ban xã mà trao, xã sẽ chuyển cho một số hộ còn nghèo! Doanh nghiệp kia đành chịu và bây giờ vẫn đều đều về chùa Tiêu tạ lễ.

Về chùa Tiêu, du khách cũng sẽ có thêm một cách hiểu về “văn hóa giọt dầu, nén tâm hương” khi mà còn nơi này, nơi kia trong các đền, chùa vẫn còn những chiếc hòm công đức bị lợi dụng và mọc lên thái quá. Khi mà trong ý thức của một số người đi lễ vẫn cố sắm mâm cao, cỗ đầy và đốt vàng mã vô tổ chức.

Cách trung tâm Hà Nội khoảng 25 km, chùa Tiêu tọa lạc trên lưng chừng núi thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Sử sách còn chép lại và lưu danh đây là nơi trụ trì của thiền sư Lý Vạn Hạnh, người đã có công nuôi dạy Lý Công Uẩn - vị vua đầu tiên của Triều Lý. Chùa Tiêu cũng là chốn tu thiền huyền bí của người xưa và là một trong những trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.

Đặc biệt, chùa Tiêu hiện nay vẫn đang lưu giữ, thờ phụng và bảo quản được nhục thân thiền sư Như Trí với dáng vẻ “ngồi kiết già” trong nhà thờ Tổ. Giống như nhục thân hai vị thiền sư chùa Đậu (Thường Tín, Hà Nội) thiền sư Như Trí cũng tịch trong tư thế ngồi thiền kiết già và được các đệ tử phết bên ngoài bằng một lớp bồi gốm đất tổ mối, sơn ta, mùn cưa” (Theo công trình nghiên cứu của PGS.TS khoa học Nguyễn Lân Cường). Pho tượng táng tại tháp cổ chùa Tiêu đã gần 300 năm. Các nghiên cứu khoa học về văn bản chữ viết đã xác định thiền sư Như Trí là người có công trùng san và in nhiều bộ sách Phật học có giá trị về Phật giáo, văn học, triết học và văn hóa dân gian… Với những giá trị như vậy, ngày 25/1/1991 chùa Tiêu đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử và nghệ thuật theo quyết định 154.QĐ của Bộ VHTT-TT.

Theo Báo Văn hóa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét