“Có bao nhiêu nghi lễ người Huế phải thực hành trong mỗi dịp năm mới?”. Sau một tuần trải nghiệm Tết Huế, chứng kiến rất nhiều lễ nghi, cúng kiếng diễn ra trước, trong và sau Tết ở cố đô, phóng viên Steve Burrow của tạp chí Asian Geographic đã hỏi tôi như vậy.
Tôi
chưa kịp trả lời thì anh hỏi thêm: “Người Huế cúng bái rất nhiều trong
dịp Tết, vậy họ có còn thời gian để ăn Tết, chơi Tết?”. Quả đúng như
vậy. Lễ nghi, cúng kiếng trong dịp Tết Nguyên đán ở Huế, có lẽ, nhiều
hơn bất kỳ nơi nào ở Việt Nam.
Là kinh đô xưa, Huế còn giữ nhiều cổ tục trong việc đón Tết và ăn Tết. Trong đó lễ nghi, cúng kiếng là phần quan trọng nhất, được người Huế duy trì thực hiện rất trang nghiêm, bài bản, với sự kính cẩn, thành tâm.
Sau lễ chạp mả là lễ cúng ông Táo.
Người Huế chỉ làm lễ cúng ông Táo, không cúng ông Công như người Bắc.
Lễ cúng ông Táo ở Huế diễn ra vào sáng sớm ngày 23 tháng Chạp. Trước lễ,
lư hương đã được thay cát mới, bàn thờ ông Táo được lau dọn tinh tươm.
Sau lễ, tượng ba ông Táo cũ bằng đất nung được tiễn khỏi bàn thờ bếp,
đưa đến đặt cạnh các am miếu ở đầu xóm, hay ở dước gốc cổ thụ cạnh ngã
ba đường. Tượng ba ông Táo mới được rước lên bàn thờ, bắt đầu “nhiệm kỳ”
một năm coi sóc bếp núc cho gia chủ.
Trong sáng ngày 23 tháng Chạp còn có lễ dựng nêu ở trước sân nhà, sân đình. Cây nêu làm bằng tre, còn giữ chùm lá tươi ở trên ngọn. Sau khi dựng nêu, người ta dùng vôi bột vẽ thành hình bộ cung tên ở dưới chân cây nêu. Đó là dấu hiệu báo cho ma quỷ biết đây là địa phận của người, chớ nên lai vãng.
Ngày 25 tháng Chạp, không khí Tết đã cận kề, cũng là lúc người Huế bắt đầu lễ cúng tổ nghề và lễ cúng tất niên.
Lễ cúng tổ nghề diễn ra ở phường hội nghề nghiệp. Mỗi phường nghề có
một ngày cúng tổ riêng. Sau lễ cúng này, đa phần các phường nghề tạm
ngưng hoạt động để đón Tết, trừ nghề thợ may và nghề cắt tóc vẫn hành sự
cho tới chiều 30 Tết. Ở lối xóm, lối phố thì có lễ cúng tất niên. Sau
một năm tất bật mưu sinh, lễ cúng tất niên là dịp để những người láng
giềng ngồi lại với nhau, cùng nhau nâng chén rượu ngon tiễn đưa năm cũ,
đón chào năm mới, thấm đượm tình làng nghĩa xóm.
Lễ cúng tất niên ở tư gia diễn ra muộn hơn, thường vào chiều 30 Tết. Sau lễ cúng trên bàn thờ mời tổ tiên về “ăn Tết”, các thành viên trong gia đình hội ngộ với nhau bên mâm cơm chiều cuối năm. Mỹ tục này được người Huế duy trì từ bao đời nay nên dù đi làm ăn xa hay gần, thì đến chiều 30 Tết ai ai cũng tìm cách đoàn tụ với gia đình trong “bữa cơm đặc biệt” này. Không chỉ đoàn tụ với người sống, họ còn muốn tìm trong khoảnh khắc thiêng liêng này hình ảnh những người thân đã khuất.
Vào thời khắc chuyển sang năm mới, người Huế tổ chức cúng giao thừa.
Lễ vật cúng giao thừa được bày biện ở ngoài sân lẫn trong nhà và đều là
cổ chay bởi lễ cúng này “vắt” đêm 30 năm cũ sang sáng mồng Một năm mới.
Dân Huế đa phần theo đạo Phật nên ngày mồng Một phải cúng chay, ăn
chay. Mâm cúng ngoài trời là để đưa đón các vị Hành khiển, diễn ra trước
lúc giao thừa ít phút. Mỗi năm có một vị Hành khiển trông coi cõi hạ
giới.
Đến lúc giao thừa, vị Hành khiển cũ ở hạ giới phải bàn giao chức trách cho vị Hành khiển mới đến từ thượng giới. Vì việc bàn giao và tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị Hành khiển chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Vì thế mà người Huế phải bày biện mâm cúng ngoài trời cho kịp thời gian của các vị Hành khiển. Lễ cúng trong nhà diễn ra vào đúng thời điểm chuyển sang năm mới là để cầu xin tổ tiên “phù hộ độ trì” cho con cháu trong gia tộc một năm mới may mắn, an khang.
Khác với ngoài Bắc, ở Huế không có tục hái lộc đầu năm nên người Huế không ra khỏi nhà trước và sau khi giao thừa. Sau này, do chính quyền địa phương có tổ chức bắn pháo hoa ở quảng trường Ngọ Môn vào lúc giao thừa nên một bộ phận người Huế, đa phần là giới trẻ, đã “biết” ra khỏi nhà vào đêm 30 Tết để chờ xem pháo hoa. Tuy nhiên, người lớn tuổi vẫn thích ở nhà lo việc cúng kiếng hơn là ra đường như đám trẻ.
Mặt khác, nhiều người Huế không muốn về nhà sau phút giao thừa để tránh lệđạp đất (ngoài Bắc gọi là xông đất) nhà mình, bởi lẽ, người ta mong người đến đạp đất nhà mình vào sáng mồng Một Tết là những người chức sắc, có học vấn, là người nhẹ vía, để tài lộc, may mắn sẽ theo họ đến với gia đình suốt cả năm sau đó.
Sáng mồng Một Tết, nghi lễ đầu tiên là lễ cúng Nguyên đán. Đó là lúc người Huế làm lễ cúng chay trên bàn thờ tổ tiên. Lễ vật là trầm trà, mứt bánh…, đơn giản nhưng tinh khiết. Sau lễ ấy, gia chủ mới mở cửa đón khách đến nhà thăm Tết.
Sáng mồng Một Tết, người Huế thường đi chùa lễ Phật trước tiên, sau đó mới đi viếng mộ tổ tiên, thắp hương nhà thờ họ tộc, đi thăm ông bà, cha mẹ đằng chồng, đằng vợ… Việc chúc Tết thầy, viếng thăm bạn bè đồng nghiệp thường là vào ngày mồng Hai, mồng Ba.
Từ ngày mồng Một Tết trở đi, mỗi ngày phải cúng kiếng 3 lần sáng - trưa - chiều trên bàn thờ tổ tiên. Ngày Sóc cúng chay, ngày thường cúng mặn. Ðến chiều mồng Ba Tết thì làm mâm cơm cúng đưa để tiễn ông bà về lại cõi trên.
Chiều ngày mồng Bảy tháng Giêng, sau lễ hạ nêu thì một chu kỳ lễ Tết ở Huế mới tạm coi là hoàn tất. Gọi là tạm bởi vì sau lễ hạ nêu, người Huế vẫn phải thực thi nhiều lễ nghi khác như lễ cúng đầu năm,lễ dâng sao, lễ cúng rằm Nguyên tiêu... Hậu duệ Nguyễn Phước tộc còn tổ chức lễ dâng hương đầu năm mới trong Thế Miếu, nơi thờ các vua triều Nguyễn, hay đi viếng mộ phần tổ tiên nơi các lăng tẩm ở ngoại ô.
Lễ nghi, cúng kiếng trong dịp Tết ở Huế, xưa cũng như nay, là một bộ phận hợp thành của văn hóa Huế. Người Huế coi đó là những nghi thức thiêng liêng, cần phải duy trì và trao truyền cho hậu thế. Đến lượt mình, các thế hệ hậu duệ người Huế tự nguyện tiếp nhận và thực hành các nghi lễ ấy, coi đó là cách thức “liên kết” với tổ tiên, thần Phật và làm phong phú đời sống tâm linh của họ, dẫu rằng, những lễ nghi ấy đã “lấy mất” khá nhiều thời gian “ăn Tết” và “chơi Tết” của người Huế, như anh chàng nhà báo Steve Burrow từng băn khoăn.
Là kinh đô xưa, Huế còn giữ nhiều cổ tục trong việc đón Tết và ăn Tết. Trong đó lễ nghi, cúng kiếng là phần quan trọng nhất, được người Huế duy trì thực hiện rất trang nghiêm, bài bản, với sự kính cẩn, thành tâm.
Hậu duệ Nguyễn Phước tộc làm lễ cúng đầu năm ở Thế Miếu, nơi thờ các vua triều Nguyễn. Ảnh: Cảnh Tăng
Trong sáng ngày 23 tháng Chạp còn có lễ dựng nêu ở trước sân nhà, sân đình. Cây nêu làm bằng tre, còn giữ chùm lá tươi ở trên ngọn. Sau khi dựng nêu, người ta dùng vôi bột vẽ thành hình bộ cung tên ở dưới chân cây nêu. Đó là dấu hiệu báo cho ma quỷ biết đây là địa phận của người, chớ nên lai vãng.
Lễ cúng xóm nhân dịp tất niên. Ảnh: Cảnh Tăng
Lễ cúng tất niên ở tư gia diễn ra muộn hơn, thường vào chiều 30 Tết. Sau lễ cúng trên bàn thờ mời tổ tiên về “ăn Tết”, các thành viên trong gia đình hội ngộ với nhau bên mâm cơm chiều cuối năm. Mỹ tục này được người Huế duy trì từ bao đời nay nên dù đi làm ăn xa hay gần, thì đến chiều 30 Tết ai ai cũng tìm cách đoàn tụ với gia đình trong “bữa cơm đặc biệt” này. Không chỉ đoàn tụ với người sống, họ còn muốn tìm trong khoảnh khắc thiêng liêng này hình ảnh những người thân đã khuất.
Thụ lộc sau lễ cúng đầu năm ở Thế Miếu. Ảnh: Cảnh Tăng
Đến lúc giao thừa, vị Hành khiển cũ ở hạ giới phải bàn giao chức trách cho vị Hành khiển mới đến từ thượng giới. Vì việc bàn giao và tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị Hành khiển chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Vì thế mà người Huế phải bày biện mâm cúng ngoài trời cho kịp thời gian của các vị Hành khiển. Lễ cúng trong nhà diễn ra vào đúng thời điểm chuyển sang năm mới là để cầu xin tổ tiên “phù hộ độ trì” cho con cháu trong gia tộc một năm mới may mắn, an khang.
Khác với ngoài Bắc, ở Huế không có tục hái lộc đầu năm nên người Huế không ra khỏi nhà trước và sau khi giao thừa. Sau này, do chính quyền địa phương có tổ chức bắn pháo hoa ở quảng trường Ngọ Môn vào lúc giao thừa nên một bộ phận người Huế, đa phần là giới trẻ, đã “biết” ra khỏi nhà vào đêm 30 Tết để chờ xem pháo hoa. Tuy nhiên, người lớn tuổi vẫn thích ở nhà lo việc cúng kiếng hơn là ra đường như đám trẻ.
Mặt khác, nhiều người Huế không muốn về nhà sau phút giao thừa để tránh lệđạp đất (ngoài Bắc gọi là xông đất) nhà mình, bởi lẽ, người ta mong người đến đạp đất nhà mình vào sáng mồng Một Tết là những người chức sắc, có học vấn, là người nhẹ vía, để tài lộc, may mắn sẽ theo họ đến với gia đình suốt cả năm sau đó.
Sáng mồng Một Tết, nghi lễ đầu tiên là lễ cúng Nguyên đán. Đó là lúc người Huế làm lễ cúng chay trên bàn thờ tổ tiên. Lễ vật là trầm trà, mứt bánh…, đơn giản nhưng tinh khiết. Sau lễ ấy, gia chủ mới mở cửa đón khách đến nhà thăm Tết.
Sáng mồng Một Tết, người Huế thường đi chùa lễ Phật trước tiên, sau đó mới đi viếng mộ tổ tiên, thắp hương nhà thờ họ tộc, đi thăm ông bà, cha mẹ đằng chồng, đằng vợ… Việc chúc Tết thầy, viếng thăm bạn bè đồng nghiệp thường là vào ngày mồng Hai, mồng Ba.
Từ ngày mồng Một Tết trở đi, mỗi ngày phải cúng kiếng 3 lần sáng - trưa - chiều trên bàn thờ tổ tiên. Ngày Sóc cúng chay, ngày thường cúng mặn. Ðến chiều mồng Ba Tết thì làm mâm cơm cúng đưa để tiễn ông bà về lại cõi trên.
Chiều ngày mồng Bảy tháng Giêng, sau lễ hạ nêu thì một chu kỳ lễ Tết ở Huế mới tạm coi là hoàn tất. Gọi là tạm bởi vì sau lễ hạ nêu, người Huế vẫn phải thực thi nhiều lễ nghi khác như lễ cúng đầu năm,lễ dâng sao, lễ cúng rằm Nguyên tiêu... Hậu duệ Nguyễn Phước tộc còn tổ chức lễ dâng hương đầu năm mới trong Thế Miếu, nơi thờ các vua triều Nguyễn, hay đi viếng mộ phần tổ tiên nơi các lăng tẩm ở ngoại ô.
Lễ nghi, cúng kiếng trong dịp Tết ở Huế, xưa cũng như nay, là một bộ phận hợp thành của văn hóa Huế. Người Huế coi đó là những nghi thức thiêng liêng, cần phải duy trì và trao truyền cho hậu thế. Đến lượt mình, các thế hệ hậu duệ người Huế tự nguyện tiếp nhận và thực hành các nghi lễ ấy, coi đó là cách thức “liên kết” với tổ tiên, thần Phật và làm phong phú đời sống tâm linh của họ, dẫu rằng, những lễ nghi ấy đã “lấy mất” khá nhiều thời gian “ăn Tết” và “chơi Tết” của người Huế, như anh chàng nhà báo Steve Burrow từng băn khoăn.
Theo Trần Huyền (Thừa Thiên-Huế Online)
Nét đặc biệt của Tết Nguyên Đán chốn kinh đô xưa
(Kienthuc.net.vn) - Là kinh đô xưa, Huế còn lưu giữ nhiều tập tục xưa trong việc đón và ăn Tết để tạo nên một nét riêng biệt của mình.
Cái Tết của người Huế
Trong cái văn hóa chung của người Việt
Nam, mỗi vùng miền lại có những nét riêng. Trong chuyện ăn Tết, trong
cách thức chung của cả nước thì mỗi vùng miền cũng có nét riêng mang đặc
sắc địa phương. Huế cũng không ra ngoài đặc điểm đó. Cái riêng của Huế nằm ở chỗ nó còn giữ được nhiều nếp xưa.
Đúng như tác giả Trần Đức Anh Sơn trong một bài viết về Tết Huế trong cuốn Phong vị Tết Việt:
“Ăn Tết nguyên đán không phải là phong tục riêng của Huế. Tuy nhiên,
Tết Huế có những nét riêng thú vị. Là kinh đô xưa, Huế còn giữ được
nhiều cổ tục trong việc đón và ăn Tết”.
Đua ghe trên sông Hương. Ảnh: Internet. |
Đầu tiên là lễ cúng ông Táo.
Nếu ở miền Bắc, không khí Tết bắt đầu từ 23 ông Táo thì ở Huế ngày này
chỉ đơn giản là ngày thay cái lư hương, quét dọn bàn thờ gia tiên. Không
khí Tết thực sự bắt đầu từ ngày 25 khi các phường hội thợ thuyền làm lễ
cúng tổ nghề và cũng là lễ tất niên.
Con gái Huế đã nổi tiếng khắp nơi về
nữ công gia chánh nên dịp Tết là dịp để họ trổ tài. Tết Huế xưa hầu như
người ta tự làm tất cả các món ăn mặn ngọt, chay tịnh… mà không phải mua
thứ gì. Có đến hàng trăm món ăn được làm trong ngày Tết: bánh tét, dưa
món, thịt bò dầm nước mắm, giò heo bó, chả thủ, nem tré, hành muối, kiệu
chua… Ngọt cũng đủ loại từ mứt bánh, mứt gừng, mứt me tới bánh in, bánh
dẻo, chè xanh đánh, chè đông sương, chè khoai tía. Đặc biệt đồ ăn mặn
có món gì thì đồ ăn chay cũng có món đó.
Huế vốn nổi tiếng với các món cỗ chay cao cấp trong cung đình xưa nên hầu hết các bà nội trợ đất thần kinh đều biết nấu được một hai món chay đặc sắc.
Sự cúng kiếng trong ngày Tết ở Huế mới
thực sự cầu kỳ. Trước Tết có cúng ông Táo, cúng tổ nghề, cúng Tất niên,
cúng lên nêu, cúng rước ong bà về ăn Tết.... Từ sáng mồng một Tết trở
đi phải cúng ông bà ngày ba bữa, ngày Sóc cúng chay, ngày thường cúng
mặn. Đến chiều mồng ba phải làm cỗ cúng đưa tiễn ông bà. Tiếp theo là
cúng đầu năm, cúng sao cúng rằm nguyên tiêu…
Người Huế không có tục hái lộc
đầu năm nên người Huế không ra khỏi nhà trước và sau khi Giao thừa. Đối
với tục xông đất, người Huế gọi là đạp đất. Nếu ở nơi khác có thể người
ta tự ra ngoài rồi về xông đất nhà mình thì ở Huế người ta mong người
đến đạp đất nhà mình vào sáng mồng một Tết là những người có chức sắc,
học vấn hay người nhẹ vía, có tài lộc để may mắn theo họ đến với gia
đình suốt cả năm đó. Thận trọng hơn, nhiều gia đình ở Huế còn “ra lệnh”
cho con cái, đứa nào nặng vía thì sáng mồng một Tết không được dậy sớm,
có thức giấc cũng phải nằm yên, chờ đứa khác nhẹ vía hơn – đã được cha
mẹ dặn trước, đặt chân xuống trước.
Muôn kiểu xem bói
Không phải là một thú chơi nhưng xem bói ở Huế vào ngày Tết rất phổ biến. Trong Phong vị Tết Việt, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã kể ra rất nhiều hình thức bói toán mà cứ mỗi độ Tết đến xuân về lại nở rộ ở Huế. Nào là bói hoa, bói xăm hường cho đến bói tuồng…
Bói
hoa thường được giới trẻ Huế sử dụng để xem tình duyên. Họ lấy một bông
hoa cúc, bắt đầu ngắt từ cánh hoa ở trung tâm rồi xoay quanh lần lượt
đến hết. Vừa ngắt đếm từng cánh hoa họ vừa nói theo thứ tự: “nàng yêu
tôi”, “nàng yêu tôi nhiều”, “nàng yêu tôi say đắm”, “nàng không yêu tôi
chút nào cả”. Cứ như thế cho đến cánh hoa cuối cùng rơi vào nhóm chữ nào
thì duyên số cũng đạt tới vận mệnh đó.
Là cố đô, Huế còn giữ nhiều nếp cũ cho nên cách đón Tết cũng có nhiều điểm độc đáo. Ảnh minh họa. |
Bói tuồng: Ở rạp Bà Tuần vào ngày Tết
người ta thường xào xáo một chương trình tuồng Tết, gồm có những vở
tuồng có đoạn nói về tình duyên để các cô các cậu đi xem. Để bói tuồng,
các giai thanh gái lịch không vào xem từ đầu mà vào đột xuất. Nếu tuồng
đang diễn đến lớp nào, buồn hay vui thì xem như ứng với mệnh mình.
Bói xăm hường là một trò chơi tao nhã,
xuất phát từ Trung Hoa, rất được người Huế ưa chuộng. Xăm có nguồn gốc
từ chữ Thiêm trong chữ Hán, nghĩa là cái thẻ. Hường là lối đọc trại từ
chữ Hồng, nghĩa là màu hồng; do âm Hồng có trong chữ Hồng Nhậm, là tên
của vua Tự Đức,
nên phải kiêng, đọc chệch đi là Hường. Đổ xăm hường là trò chơi gieo
con súc sắc (còn gọi là hột tào cáo, hột xí ngầu) để dành những chiếc
thẻ khắc chữ màu đỏ, ghi các học vị trong hệ thống khoa cử thời xưa,
gồm: Tú tài, cử nhân, tiến sĩ, hội nguyên, thám hoa, bảng nhãn và trạng
nguyên. Ngay tên gọi của các quân cờ cũng đã thể hiện tính nho nhã của
trò chơi cũng như tinh thần cầu học và ước vọng khoa bảng của người xưa.
Lại còn có cách bói đò. Nguyên ở giữa
chợ Gia Lạc (vùng Vĩ Dạ) và chợ Dinh (vùng Gia Hội) trên sông Hương ở
Huế có một con đò ngang mà người ta nói là rất thiêng. Trong ngày Tết,
người dân Huế coi việc mình kịp đò hay không để xem là điềm lành hay
xấu. Nếu người ta đến bến đò mà con đò vẫn đang nằm chờ hoặc vừa mới ghé
vào bờ thì đó là vận may, buôn án sẽ hanh thông suốt năm còn nếu phải
chờ đò lâu hoặc đến lúc đò vừa rời đi thì là điềm xấu.
Kể tới đây, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường bình luận: “Thật ra đó là bến đò ngang duy nhất để người Huế ở khu
Gia Hội có thể xuất hành trong ngày Tết. Tâm lý xuất hành rất quan
trọng ở người Huế, ví dụ ra đi khỏi nhà lỡ có người gọi giật lui liền
quay về, không dám đi đâu nữa, tức bực suốt ngày hôm ấy. Hơn nữa, chợ
Gia Lạc lại chỉ đông vào 3 ngày Tết nên càng bao hàm tính xuất hành của
chuyến đò đầu năm”.
Vũ Tiến Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét