Ông Đỗ Công Tường tục danh là Lãnh. Người sinh quán ở miền Trung đến lập nghiệp tại làng Mỹ Trà dưới triều Gia Long vào năm Đinh Sửu (1817). Với đức tính cần cù, chịu khó, ông bà đã khai khẩn đất hoang, trồng được một vườn quít khá lớn, cây trái sum suê.
Nơi đây thuận tiện cả đường sông, đường bộ nên dân làng thường tụ tập để trao đổi, mua bán cây trái và hàng hóa ngày. Lâu ngày, chợ đông dần, và trở thành nơi trao đổi, mua bán hàng hóa. Từ đó, gia đình ông bà khá giả dần lên. Với đức tính cương trực, thẳng thắn nên được dân làng chọn giữ chức Câu đương, phân xử những vụ tố tụng trong làng.
|
| Điện thờ chính trong ngôi đền Ông Bà Chủ Chợ |
Năm 1820 đất trời biến động, bệnh dịch tả phát lên dữ dội làm chết rất nhiều người trong làng, chợ vườn quít trở nên thưa vắng, không khí trong làng bao trùm cảnh tang tóc, lo âu. Với tấm lòng nhân từ, bác ái, động lòng trắc ẩn, thương cảm dân tình trong làng lâm vào đại nạn, ông bà đã lập bàn hương án, cầu nguyện phật trời xin chết thay cho dân chúng. Qua ba ngày cầu khẩn, chay lạt thì bà chết, ngày sau ông cũng chết theo vì dịch bệnh.
An táng cho ông bà xong, bịnh dịch lần hồi cũng dứt luôn. Do vậy, dân làng nghĩ rằng lòng thành của ông bà thấu đến Trời Phật, chính ông bà chết thay cho họ, nhờ đó mà họ thoát chết. Nên cùng nhau kẻ ít người nhiều, chung đậu dựng ngôi đền thờ ông bà bên rạch Thầy Khâm (nay là đại lộ Lê Lợi), ngày đêm khói hương không dứt để tưởng nhớ công lao hai người, gọi là đền Ông Bà Chủ Chợ. Hàng năm cúng bái long trọng.
Từ đó, chợ Ông Câu, được gọi là chợ Câu Lãnh, lâu ngày nói trại thành Cao Lãnh. Lần hồi Cao Lãnh trở thành một địa danh cho đến ngày nay.
Năm 1936, đại hương cả làng Mỹ Trà là Huỳnh Kim Sanh, đệ đơn nhờ Chủ quận Cao Lãnh xin triều đình sắc phong. Cuối năm, vua Bảo Đại phong sắc cho ông bà Dực bảo trung hưng linh phù chi thần. Từ đó miếu ngày càng được trùng tu, cúng tế mỗi năm 2 lần: Ngày vía ông bà: 09 -10 tháng 6 âm lịch; Ngày sanh ông bà: 16 -17 tháng 3 âm lịch.
Do ngôi đền nằm ở trung tâm thành phố, lại có không gian rộng lớn nên rất thuận tiện cho mọi người đến viếng thăm, cúng bái. Ngôi đền được trang hoàng lộng lẫy với cổng tam quan to, chắc chắn, được trang trí rực rỡ, với kiến trúc đền miếu Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX. Phía trước cổng có tượng của bốn con sư tử đặt ở hai bên cổng. Hai con sư tử mẹ với tư thế ngồi xổm như canh chừng để xua đuổi tà khí và mọi điều xui xẻo vào đền, hai con sư tử con ở hai bên thì đùa giỡn với trái cầu, biểu tượng cho một cảnh sắc thanh bình.
Ở mỗi cửa của cổng tam quan đều có mái nóc, trên có lợp ngói, được trang trí nhiều hoa văn họa tiết, nổi bật với hai gam màu vàng và đỏ. Phía trên cổng chính có biển đề: Đền thờ Ông Bà Đỗ Công Tường. Sau cổng là một khoảng sân hơi hẹp nhưng khá sạch sẽ, được điểm xuyết bởi những cây kiểng quý như: mai vàng, mai chiếu thủy, thiên tuế… làm cho không gian trở nên dịu mát hơn giữa cảnh ban trưa nắng gắt. Đền thờ gồm có một nhà chính và một nhà phụ. Nhà phụ nằm bên phải đền thờ là nhà khách, nơi dùng để tiếp khách, sinh hoạt của những người phụ trách đền và cũng là nơi chuẩn bị thức cúng trong mỗi kỳ tế lễ.
|
| Hương án thờ bài vị ghi ba chữ Chủ thị miếu bằng chữ Hán. |
Đền thờ, ngoài bề ngang khá rộng, chiều dài cũng khá sâu. Ngay cửa chính của đền thờ là một tấm bia bằng kim loại ghi công tích của ông bà trong lịch sử được đặt ngay chính giữa lối đi, có tác dụng như bức bình phong che chắn những cái nhìn trực diện từ ngoài vào gian chính điện. Khuôn viên bên trong đền thờ được trang hoàng rực rỡ nhưng cũng đượm vẻ thâm u, tạo nên một không khí thiêng liêng và tĩnh lặng đến lạ thường. Trong này được chia thành nhiều gian, mỗi gian có một trang thờ riêng, thờ các vị thần khác nhau, như gian thờ Quan Thánh Đế, gian thờ Khổng Tử và có cả gian thờ Thành hoàng của đình thần Đình Trung…
Sau cùng mới là gian chính điện, nơi thờ ông bà chủ chợ. Gian này cũng được trang trí rực rỡ, tinh tế với nhiều hoa văn họa tiết vừa đẹp, vửa tỉ mỉ và khéo léo. Giữa trang thờ này có bài vị to, trên đó có viết ba chữ Hán: Chủ thị miếu - tức là miếu chủ chợ. Phía trước trang thờ này còn có võng rèm bằng gỗ được chạm khắc hình rồng ẩn mây, lưỡng long tranh châu vừa lộng lẫy vừa tôn thêm sự uy nghiêm của gian thờ.
Với những gì còn lưu giữ được ngày nay, đền thờ ông bà chủ chợ đã được UBND tỉnh Đồng Tháp xếp hạng di tích vào ngày 20 tháng 4 năm 2001.
Tên tuổi ông bà Đỗ Công Tường đã gắn liền với địa danh Cao Lãnh, gắn với một giai thoại về nhân nghĩa ở đời. Vì vậy, nếu có dịp về Đồng Tháp, xin mời du khách đến tham quan đền thờ ông bà Đỗ Công Tường, một di tích lịch sử đã ngự trị mãi mãi trong lòng nhân dân Đồng Tháp nói riêng, nhân dân Nam Bộ nói chung
.
Bài và ảnh: Trần Quang Diệu
Thành hoàng Cao Lãnh
Đền thờ “ông Chủ” tọa lạc ở số 64 đường Lê Lợi, P.2, TP.Cao Lãnh, Đồng Tháp. Đây là khu vực kinh doanh sầm uất của TP.Cao Lãnh, ngoài đền một chút là ngôi nhà lồng chợ khá quy mô. Xung quanh đền, người mua bán trái cây bày ra chật vỉa hè. Dân địa phương cho biết, ở đây ngày xưa có một chợ trái cây nằm gần mé sông, đến thời chính quyền Ngô Đình Diệm mới dời về gần đền.
Đền thờ “ông Chủ”
Đền thờ “ông Chủ” tọa lạc ở số 64 đường Lê Lợi, P.2, TP.Cao Lãnh, Đồng Tháp. Đây là khu vực kinh doanh sầm uất của TP.Cao Lãnh, ngoài đền một chút là ngôi nhà lồng chợ khá quy mô. Xung quanh đền, người mua bán trái cây bày ra chật vỉa hè. Dân địa phương cho biết, ở đây ngày xưa có một chợ trái cây nằm gần mé sông, đến thời chính quyền Ngô Đình Diệm mới dời về gần đền.
Chúng tôi đến thăm vào lúc ngôi đền đang tiến hành trùng tu. Nói trùng tu chứ thật ra là phá bỏ
ngôi đền cũ để tôn nền và thay đổi kiến trúc mới với quy mô hoành tráng hơn. Cổng chính ngôi đền được xây dựng từ năm Quý Mão (1963) vẫn giữ nguyên với tấm biển hiệu Đền thờ ông bà Đỗ Công Tường và hai câu đối. Toàn bộ tự khí của ngôi đền được tạm dời sang “nhà khói” để tiếp khách tham quan và cúng tế. Việc bài trí vì vậy có hơi lộn xộn, song vẫn xác định được trong gian thờ ngoài bàn thờ chính thờ ông bà Đỗ Công, còn phối tự thêm bàn thờ Quan Vân Trường và Đức Khổng Tử, nhằm mục đích đề cao Nho học và thỏa mãn đời sống tâm linh của đồng bào Việt gốc Hoa hay người Hoa sinh sống ở địa phương.
Khu mộ ông bà Đỗ Công Tường - Ảnh: H.P
|
Phía sau đền, cách một quãng nhà dân chừng vài trăm thước là khu mộ của ông bà Đỗ Công Tường. Nằm trong một khuôn viên rộng rãi, hai ngôi mộ chôn theo nguyên tắc nam tả nữ hữu, được ốp đá hoa cương. Trước nhà mồ có câu đối viết bằng chữ quốc ngữ “Dực bảo trung hưng lưu truyền hậu thế, Đỗ Công chủ thị thế tử hộ dân”. Đường vào mộ, cổng chính cũng được xây lại hồi năm 2001 theo lối cổng tam quan 2 mái.
Ông Huỳnh Văn Bảy, thành viên của Ban Bảo vệ di tích cho biết, hai ngôi mộ ông bà hồi xưa là ngôi mộ nấm đất như những người dân bình thường khác, về sau người ta xây lại bằng xi măng, qua thời gian xuống cấp nên Ban Bảo vệ di tích đã vận động góp tiền
trùng tu lại. Cũng theo ông Bảy, đất của ông chủ trước đây rộng lắm. Phía sau đền là khu nghĩa địa, được giải tỏa sau năm 1975, rồi người dân cất nhà lấn chiếm nên không còn lại bao nhiêu. Năm ngoái khi tiến hành khởi công xây dựng lại đền thờ cũng phải tiếp tục đền bù giải tỏa.
Chợ Cao Lãnh
“Mỹ kiểng Câu Đương hữu chí lập thành sanh bửu cuộc/ Trà giang Lãnh thị triêm ân thương mãi nhựt vinh ba”. Câu đối khoán thủ ở đền đã hàm chứa lai lịch, hành trạng của nhân vật được tôn thờ trong đền. Tương truyền vào khoảng năm Đinh Sửu (1817), ông và bà Đỗ Công Tường, người gốc Quảng Nam đã di dân tới lập nghiệp tại thôn Mỹ Trà. Ông Đỗ Công Tường, có tục danh là Lãnh, là người chánh trực, nên được cử giữ chức Câu đương, có nhiệm vụ hòa giải các việc xích mích của người dân địa phương. Sau mấy năm khai phá, ông đã lập được khu vườn trồng quýt rộng lớn. Trong vườn quýt lại có một khoảnh đất rộng, người dân địa phương gom lại thành cái chợ chồm hổm, để mua bán trao đổi sản vật.
Vào mùa hè năm Canh Thìn (1820), dịch tả bộc phát ở Hà Tiên rồi lan tràn khắp các tỉnh Nam kỳ (nhà Nguyễn thống kê có 206.835 người chết và ra lệnh trợ cấp tử tuất). Vì vậy trong dân gian có câu “Năm Thìn năm Tỵ chị chẳng nhìn em”. Vào thời điểm đó tại làng Mỹ Trà dịch bệnh lan quá nhanh, dân chúng chết như rạ, không thuốc nào chữa trị được. Vì vậy cái chợ chồm hổm ở vườn quýt trở nên vắng hoe. Trước cảnh dân chúng tang thương vì dịch bệnh mà không có thuốc chữa chạy, ông bà Đỗ Công Tường động lòng trắc ẩn nên đặt bàn hương án giữa trời, khấn vái xin trời phật cho ông bà chết thế mạng cho dân chúng ở vùng này và nguyện trường trai cầu khấn trời phật phù hộ dân tình thoát khỏi bệnh dịch.
“Ngài thấy vậy đau lòng xót dạ, thiết đàn cầu an ổn nhơn dân; Trời nghe cho trước vợ, sau chồng, muốn tiếng để cho thạnh hòa hương ấp, thời đồng theo đi xuống chốn huỳnh tuyền, đều dị oái mới về miền thạch lập, cơn sóng gió phu thê là nghĩa trọng, đem thân cầu thế từ ít muôn ngàn; cuộc sống tang thương biến cải khó bao nài (Văn tế Chủ thị Đỗ công). Chẳng hiểu sao, qua ngày mùng 9 thì bà lâm bệnh, tắt thở. Ngày hôm sau, ông bất thần chết theo bà. Dân làng xúm lại lo an táng cho hai ông bà cùng một lượt. Sau khi dân chúng chôn cất ông bà xong thì bệnh dịch cũng chấm dứt, người dân được bình phục và trở lại cuộc sống bình thường. Người dân tin rằng lời cầu nguyện rất thành tâm của ông bà Đỗ Công Tường đã được ơn trên chứng giám.
Thế rồi chợ vườn quýt tiếp tục nhóm lại. Tưởng nhớ công đức ông bà Đỗ Công Tường, người dân đặt tên là chợ “Câu Lãnh”, tức chợ của ông “Câu đương” tên “Lãnh”. Lâu dần chữ “Câu” đã được đọc trại ra là “Cao”, từ đó có địa danh Cao Lãnh cho đến ngày nay. Cùng với việc đặt tên chợ, dân chúng đã cùng nhau đóng góp: kẻ góp công, người góp tiền mua vật liệu để lập miếu thờ ở ngay nơi hai ngôi mộ của ông bà làm nơi thờ phượng. “Người dường ấy mà công trạng dường ấy, nay hương thôn cám tưởng tấm lòng vàng”. Đến năm 1936, từ sự vận động của các bô lão địa phương, vua Bảo Đại đã sắc phong ông Đỗ Công Tường danh hiệu “Dực bảo Trung hưng Thành hoàng chi thần”. Đỗ Công chủ thị được tôn làm Thành hoàng Cao Lãnh từ đó.
Hằng năm, vào ngày mùng 9 và mùng 10 tháng 6 âm lịch là ngày vía ông bà Đỗ Công, Ban Quản lý di tích đền cho biết ngày hôm trước tổ chức giỗ bà, hôm sau giỗ ông rồi mới kết thúc, cho nên lễ hội thường kéo dài đến 2 ngày rưỡi.
Đền thờ ông bà Đỗ Công Tường đã được công nhận di tích cấp tỉnh ngày 20.4.2001.
Ngọc Phan - Hoàng Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét