Thứ Tư, 4 tháng 5, 2011

Bí mật đằng sau thành đá lớn nhất Việt Nam

Một ngôi thành bằng đá xanh hùng vĩ vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt suốt 600 năm qua. Những người thợ thủ công đã làm thế nào để vận chuyển và đưa những khối đá hàng chục tấn lên cao? Làm thế nào giữa các tảng đá không cần chất kết dính mà ngôi thành vẫn vững vàng qua bao mưa nắng?



Thành Nhà Hồ (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) vốn là kinh đô của nhà Hồ, thành còn được gọi là Tây Đô để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long - Hà Nội). Đây là một công trình kiến trúc đồ sộ, một hoàng thành rộng lớn vào bậc nhất Việt Nam, có người đã ví von đây là “Kim tự tháp” đá của Việt Nam.

Công trình hùng vĩ này do Hồ Quý Ly - lúc bấy giờ là tể tướng cho xây dựng vào năm 1397. Thành có bình đồ kiến trúc hơi vuông với hai mặt nam - bắc dài hơn 900m, hai mặt đông - tây dài hơn 700m, độ cao trung bình 7-8m, có nơi như ở cửa nam cao tới 10m.

Điều đặc biệt thú vị là toàn bộ tường thành và bốn cổng chính được xây dựng bằng những phiến đá xanh, đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau với tổng khối lượng đá được sử dụng xây thành khoảng 20.000 m3 và gần 100.000 m3 đất được đào đắp.

Các phiến đá có kích thước rất lớn, chiều dài trung bình 1,5m, cá biệt có phiến dài tới 5m, rộng 1,5m và nặng tới 15-20 tấn.

Các cổng thành được xây dựng theo kiến trúc hình vòm. Những phiến đá trên vòm cửa đục đẽo hình múi bưởi, xếp khít lên nhau. Cổng tiền (phía Nam) là cổng chính, có ba cửa. Cửa giữa rộng và cao gần 6m, hai cửa bên rộng 5,4m, cao 5,3m. Ba cổng còn lại chỉ có một cửa.

Điều đáng ngạc nhiên là một công trình kiến trúc đồ sộ, vững chắc như vậy mà theo tương truyền của nhân dân địa phương, thành chỉ được xây trong vòng ba tháng. Cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều giả thuyết và bí mật xung quanh việc xây thành.

Đầu thế kỷ 20, nhà nghiên cứu người Pháp L.Bezacier, chuyên nghiên cứu về văn hóa Đông Dương, đã nhận xét về thành nhà Hồ như sau: “Thành cổ này là một mẫu mực độc nhất về việc sử dụng những khối đá vôi to lớn, được đẽo gọt và ghép một cách rất tài tình...”.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, đá xây thành đã được vận chuyển từ vùng núi An Tôn, Xuân Đài hoặc núi Nhồi cách thành từ vài cho đến hàng chục km
Cổng thành phía Nam với ba cửa mái vòm lớn
Chỉ bằng những phương tiện thủ công nhưng người xưa đã tạo nên một thành đá rất đồ sộ. Các góc thành đều rất vuông vức
Cổng thành phía Đông với mái vòm bằng đá rất đẹp
Những tảng đá được chồng khít lên nhau và giữa chúng không hề có chất kết dính
Cho đến bây giờ việc xây thành vẫn là một bí mật
Một vài chỗ đã có hiện tượng lún đỗ để lộ ra những phiến đá với kích thước khổng lồ
Bức tường thành bằng đá vẫn vững vàng qua hàng trăm năm
Giữa thành là một đôi rồng đá rất đẹp, dấu tích của cung điện ngày xưa. Điều thú vị là cả hai con rồng đá này đều bị chặt đầu chặt đuôi?
  • Hoàng Giang
  • Phát hiện thêm dấu tích của một công trường khai thác đá cổ
    Vừa qua, việc phát hiện ra công trường khai thác đá cổ mà nhà Hồ đã sử dụng khai thác và chế tác đá để xây thành đã trả lời được câu hỏi: “Đá xây thành được lấy ở đâu?” mà từ bao năm nay, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã kỳ công tìm hiểu, nhưng vẫn chưa có được câu trả lời thỏa đáng.
    Tuy nhiên ngoài công trường khai thác đá vừa được phát hiện thì còn công trường nào khác nữa không?
    Nhiều tảng đá khổng lồ vuông vức được cho là đùng để làm đá xây thành
    Nhiều tảng đá khổng lồ vuông vức được cho là đùng để làm đá xây thành
    Trong chuyến công tác mới đây ở Vĩnh Lộc, chúng tôi đã được người dân cung cấp thêm một số nguồn tin mới rất có giá trị về công trường khai thác đá thứ 2 của thành nhà Hồ. Theo đó, ngoài công trường khai thác đá vừa mới phát hiện ở núi An Tôn (thuộc địa phận xã Vĩnh Yên), còn có thêm một công trường khai thác đá khác nữa nằm ở địa phận xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Lộc (cách Thành nhà Hồ 3,5 km về phía Nam). Tuy nhiên, công trường này vẫn chưa được phát hiện và nghiên cứu.
    Rõ ràng những phiến đá này được kê có chủ đích
    Rõ ràng những phiến đá này được kê có chủ đích
    Theo lời kể của những người cao tuổi sống ở quanh đây thì những phiến đá này đã có từ rất lâu đời. Điều đặc biệt là những phiến đá này có kích cỡ tương đối bằng nhau và tương ứng với các khối đá xây Thành nhà Hồ. Trong số những phiến đá này có phiến được mài nhẵn và xếp chồng lên nhau hoặc kê bằng những khối đá nhỏ ở tư thế chuẩn bị được di chuyển. Ngoài ra, xung quanh khu vực này còn có rất nhiều câu chuyện, thần tích, thần phả còn lưu lại trong dân chúng và trong gia phả của một số dòng họ, có liên quan đến lịch sử giai đoạn thế kỷ từ XV đến XVII.
    Nhiều phiến đá đã được kích sẵn chờ khai thác
    Nhiều phiến đá đã được kích sẵn chờ khai thác
    Vị trí khu vực công trường đá cổ này cách Quốc lộ 45 khoảng 200 m và cách sông Mã khoảng 1 km. Theo quan sát của chúng tôi, những phiến đá này có sự can thiệp và tác động bởi bàn tay con người.
    Dưới đây chúng tôi cung cấp tới bạn đọc một số hình ảnh mới nhất về di chỉ vừa mới được phát hiện này.
    Có rất nhiều bằng chứng cho thấy đây là công trường khai thác đá
    Có rất nhiều bằng chứng cho thấy đây là công trường khai thác đá
    Với đặc thù núi mâm xôi (đá xếp theo từng lớp), đá ở khu vực quanh thành nhà Hồ rất phù hợp cho việc xây thành
    Với đặc thù núi mâm xôi (đá xếp theo từng lớp), đá ở khu vực quanh thành nhà Hồ rất phù hợp cho việc xây thành
    Sự ngổn ngang này cho thấy đây đã từng có sự tác động của con người
    Sự ngổn ngang này cho thấy đây đã từng có sự tác động của con người
    Nhiều phiến đá đã được gọt đẽo, to tương đương các phiến đá xây thành
    Nhiều phiến đá đã được gọt đẽo, to tương đương các phiến đá xây thành
    Phiến đá
    (TT&VH Online)
    ,

    Công trình độc đáo bậc nhất Đông Nam Á tại Việt Nam

    (Zing) - Thành Tây Đô là công trình quân sự vững chãi bậc nhất được xây dựng từ thời nhà Hồ vào năm 1397. Cho đến nay, cố đô đá này vẫn được đánh giá là có lối kiến trúc độc đáo bậc nhất Đông Nam Á, mới đây đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới.

     Thành Tây Đô (hay còn gọi là thành nhà Hồ, thành Tây Giai) bên ngoài xây đá, còn bên trong chủ yếu là đắp đất, trên bình đồ kiến trúc gần vuông, hai mặt Nam và Bắc của thành nhà Hồ dài hơn 900 m, Đông và Tây dài hơn 700 m và tường thành bao quanh. 
     Các phiến đá có chiều dài trung bình 1,5 m, có tấm nặng tới 15-20 tấn. Chúng được xếp chồng lên nhau, không cần chất kết dính mà vẫn đảm bảo độ bền vững.
     Trong lịch sử, thành từng được coi là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội nước ta. Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi 7 năm (1400-1407) dưới triều Hồ, nhưng đây là một kiến trúc độc đáo và thực sự là một di sản quý báu.
     Những tảng đá xây dựng thành được đẽo vuông vức, công phu, ít nhất cũng tạo được từ 4 đến 5 mặt phẳng, có tấm rất to ở cửa Tây dài tới 5,1m; rộng 1,59m; cao 1,30m, được xếp chồng lên nhau thành hình chữ công.
     Thành có 4 cửa. Cửa phía Nam rất giống cửa phía Nam thành Thăng Long. Quanh thành có hào sâu, phía trong là cung điện uy nghi lộng lẫy. Từ cửa Nam xây đường lát đá thẳng đến đàn Nam Giao ở Ðốn Sơn.
     
     Qua 600 năm thử thách, cơ bản phần ốp đá bên ngoài hầu như còn nguyên vẹn.
     
     Các bạn trẻ viết vẽ lên tường thành, khiến nhiều phiến đá mất đi giá trị văn hóa.
     
     Hai bên Thành trở thành những bãi ruộng trù phú của người dân.
     
     Bốn bức tường thành có chiều dài dao động từ 800m đến 1.000m. Chiều cao trung bình tường là 8,6 m.
     
    Trung tâm Bảo tồn di sản thành nhà Hồ phối hợp với Viện khảo cổ học tiến hành khai quật nghiên cứu đường Hoàng Gia (còn gọi là đường Hòe Nhai) tại khu vực cửa Nam Di sản thế giới Thành Nhà Hồ (Thanh Hóa) với diện tích 1.500 m2.
    Con đường Hoàng Gia đang bước đầu xuất lộ với cấu trúc đá khá độc đáo, minh chứng cho công sức lớn lao của nhân dân ta dưới triều đại nhà Hồ.
    Theo các nhà khoa học, con đường Hoàng Gia tồn tại một cách khá nguyên vẹn với chiều dài khoảng 2 km, có cấu trúc đá độc đáo với những khối đá tương đối khít và phẳng phiu được lắp ghép lại để tạo nên giao lộ cổ kính.
     
     Trong quá trình khai quật, các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều di vật khảo cổ như chông sắt, mũi lao sắt, đạn đá..., nhiều đồ gốm sứ thời Lê, thời Lý, các trang trí kiến trúc bằng đá của các triều đại sau đó...
     
    Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn phát hiện ra tuyến phòng thủ hình bán nguyệt bằng đá trước cửa Nam Thành Nhà Hồ (được xây dựng ở thời nhà Lê)...
     
    Các đinh sắt (kiểu đinh thuyền) thế kỷ 14-15 trong quá trình khai quật thành nhà Hồ, đàn Nam Giao.
     
     Trong cuộc khai quật thám sát năm 2008, các nhà khoa học còn sưu tập được nhiều tiền đồng có từ thời kỳ này.
     
     Bao nung gốm được phát hiện năm 2008, đồ vật này có từ khoảng thế kỷ 14-16.
     
     Những bi sắt được dùng để làm đòn bẩy, đưa những phiến đá lên cao.
     Ngói mái sen...
     ...và gạch lát nền thế kỷ 14-15, được khai quật năm 2008.
    Lê Hiếu
    Theo infonet


    Cổng chính Thành Nhà Hồ - Di sản văn hóa Thế giới. Ảnh: Bá Dũng
    (THO) - Cuối tháng Giêng, hửng nắng, tôi và Lê Thám đèo xe máy long rong thăm lại Thành Tây Đô. Chúng tôi không đi theo đường cái từ thành phố Thanh Hoá lên Vĩnh Lộc. Lê Thám ngoặt xe đi theo dọc bờ sông Mã, qua đền thờ Dương Đình Nghệ, rập rình cầu phao Vồm, ra Quán Lào, lên cầu Kiểu, ngược Thành Tây Đô.
    Lê Thám vừa lượn xe vừa nói:
     -  Tôi muốn có bức ảnh Thành Tây Đô vào lúc trời vần vũ, mây đen, mây trắng cuồn cuộn trên thành. Chưa đến mùa giông gió, chắc là không chụp được.

    Tôi vừa nói ý mình vừa muốn hỏi:

     -  Trời nắng trong thì ánh sáng đẹp chứ sao ?

    Lê Thám giảng giải một thôi nhiệt huyết về ảnh nghệ thuật, rồi hạ giọng:

     -  Ảnh đẹp về Thành Tây Đô đã nhiều người chụp được. Nhưng để có tấm ảnh ấn tượng gợi về lịch sử bạo liệt thời Trần - Hồ thì chưa có.

    Chúng tôi đến thăm thành loanh quanh trong bao nhiêu câu chuyện. Đoạn đường từ phố huyện Vĩnh Lộc lên đang trong dịp thi công cống rãnh hai bên, bụi đất, ổ gà, sắt thép, xi măng bề bộn. Chúng tôi vượt qua, dừng lại trước cổng thành 
    Nam. Ba cửa thành mở ra ba vòm trời muôn thuở. Bốn mặt đường thành đất đá hun hút gió. Hai con đường cắt vuông góc đi về bốn cửa Bắc,Nam, Đông, Tây. Lê Thám dừng trước cổng thành chăm chú nhìn đám người cuốc, thuổng đào bới đất đá. Họ đang khai quật tìm lại dấu tích sân duyệt binh từ thời nhà Hồ chống giặc Minh. Nếu đưa các chi tiết ấy vào ảnh thì rất dễ nhầm với toán người phá bờ, cuốc đất. Lê Thám đi đi lại lại tìm góc độ để chụp đoàn người áo đỏ, áo xanh, giương ô đi trên thành. Tôi không theo anh, một mình ngồi trên cỏ mà miên man suy nghĩ, thương nhớ xa xôi...
    Chao ôi, biết bao điều huyền bí không thể nào lý giải nổi. Những tảng đá hàng chục tấn được đục đẽo vuông vức, bằng cách nào để đưa lên cao cả chục mét tự thuở xa xưa chưa có máy móc cơ giới; toà thành tráng lệ, bề thế chu vi vài cây số với khối lượng đất đá khổng lồ, không chất kết dính mà sừng sững vững chãi đã hơn sáu thế kỷ và trường tồn, lại chỉ thi công hoàn thành trong thời gian 3 tháng... Mới thấm thía dưới đám cỏ xanh rười rượi tôi đang ngồi đây là bao nhiêu mồ hôi, máu, xương ông cha một thuở “thành xây xương lính, hào đào máu dân...”!

    Dòng sông Mã từ đầu nguồn đổ xuống đến khúc sông này phải qua vô vàn ghềnh thác. Tôi nhớ những lần chín mười tuổi rủ nhau đi đốn củi rừng, cốn bè cho xuôi về qua ngoằn ngoèo bờ đá núi. Một bên núi Mầu, một bên núi Do. Núi Do chặn ngang đường xuống cửa Bắc thành. Bốn bề rậm rì một vùng rừng núi hoang vắng. Năm sáu chục năm về trước, cọp đói khát vẫn thi thoảng tìm về. Dạo ấy xuống thành chỉ mỗi con đường qua dốc Eo Lê. Xuống dốc Eo Lê một đoạn là gặp quán ông Cao, mái tranh, vách nứa. Kẻ xuôi, người ngược, ai đi qua đến độ ấy cũng nghỉ chân uống nước, ăn bánh chưng ông Cao. Gọi là ông Cao bởi lẽ ông gầy, cao lêu khêu, khuôn mặt xương xẩu, râu ria lởm chởm. Trông ông có vẻ một tay võ nghệ ẩn tích ở nơi sơn cước. Qua khúc này, sông Mã lặn ngụp đổ xuống Gò Mã. Tương truyền thượng tướng Trần Khát Chân bị chém đầu ở chân núi Đốn Sơn. Ngài nhảy lên ngựa chạy đến Tam Tổng thì đầu rơi. Nơi ấy dân chúng lập đền thờ Ngài, gọi là Nghè Tam Tổng. Con ngựa phi sang bên kia sông ngã quỵ, cát sông ùn lên thành đống, gọi là Gò Mã. Qua khúc này, sông Mã chảy ngang nhà tôi bắt đầu hoàn hồn mở ra hai cánh bãi. Bên kia làng Thuý Đại mía xanh bạt ngàn, bên này phố Giáng bãi bồi rau, ngô ngút ngát, đêm đêm văng vẳng câu hò đò dọc. Những câu hò xuôi mái theo nhịp dô tả, dô tà. Người hóp đò cất lên từ câu ca dao, gọi lên từ lời trai gái đối đáp nhau hai bờ. Lâu lâu mới nghe được vài câu ca từ xa xưa thời chở đá xây thành...


    “Đá núi Nhồi, đá Bông Hang
    Ai đi cùng hội thì sang mạn thuyền ”
                           ...
    “Bao giờ thiên hạ thái bình
    Tây Đô mở hội thì mình mới yên”...

    Tây Đô đã có nhiều nhà sử học, nhà khảo cổ, nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo, những tao nhân mặc khách, nhiều bậc vua chúa đã đến tìm hiểu, thăm thú ngợi ca lưu lại trong sử sách, khắc chạm trên đá núi, văn bia, hang động và lan truyền trong dân gian. Tôi không viết lại lời người xưa, không dám đánh giá bình luận gì. Tôi chỉ muốn lưu giữ trong tâm hồn mình và bè bạn vẻ đẹp thâm trầm, kỳ vĩ của thành Tây Đô mà cha con Hồ Quý Ly đã có công khởi xướng. Hãy trả lại và giữ nguyên sự tích cùng với những nhân vật lịch sử đã phủ lên một màu huyền thoại để góp vào cuộc sống mơ mộng tiếp nối của các thế hệ mai sau. Tôi cho có ai đó đua nhau tranh cãi, mổ xẻ lạnh lùng, băm băm, bổ bổ vào lịch sử thì đó chính là cái bệnh thấy mình mà không thấy hết thiên hạ. Đó là một trong những hiện tượng mù tối của cá nhân hợm hĩnh thời nay.
    Thành Tây Đô cách ta hơn sáu trăm năm, nhiều cảnh trí thiên nhiên và những tạo dựng của con người đã đổi thay muôn vẻ. Nhưng sông Mã, sông Bưởi, núi Đốn Sơn, động Hồ Công... vẫn nguyên chỗ cũ. Đá thành Tây Đô vẫn xanh thâm thẫm màu mắt lệ. Gạch đào lên trước cổng thành còn hầm hập màu lửa cháy. Người ta đang và sẽ liên tục trùng tu thành Tây Đô - một di sản văn hoá của nhân loại. Tôi tưởng tượng ra thành Tây Đô ngày mai hiện lên với dọc ngang cung điện. Bốn cổng thành mở ra những tụ điểm văn hoá làng xã: Tây Giai, Đông Môn, Phương Giai, Cẩm Bào, Bái Xuân, Cao Mật... Con đường Hoa Nhai xưa mở từ cửa 
    Nam chạy thẳng xuống Đốn Sơn, Đàn Tế Nam Giao, đền thờ Trần Khát Chân sẽ nhộn nhịp, sầm uất và lộng lẫy.
    Rồi tất cả chúng ta đều qua lối ngoặt cuộc đời. Thế hệ khác thay chúng ta lại đến thăm thú. Người trong nước, khách nước ngoài đến rồi đi. Thành Tây Đô ở lại khảm vào chân trời Xứ Thanh:

                           
     Một bài thơ bằng đá
                            Khúc thần thoại bằng đá

                            Bức phù điêu bằng đá.


    Cuối ngày, Lê Thám đưa tôi vào thăm miếu thờ nàng Bình Khương (vợ viên đốc công thương chồng, nàng đập đầu vào đá ). Khói hương nghi ngút. Những cây nến cháy dở nhỏ giọt xuống mặt đá, ánh lên nửa sáng, nửa tối, nhập nhoà vào màu đá thâm u. Một cảm giác ma mị trùm lên, tôi như trong ảo giác, nhìn những giọt nến đỏ nhễu ra, rỏ xuống, loang trên mặt đá, rồi thẫm lại như những giọt máu đau đớn tuẫn tiết của nàng Bình Khương...

    Chúng ta hãy đi cùng lịch sử thắp sáng lên lòng ngưỡng mộ, niềm tự hào về thành Tây Đô kỳ vĩ; thầm lặng cúi đầu tưởng niệm những dân phu, thợ thủ công, những nghệ nhân... đã nhập hồn mình vào gạch đá thành Tây Đô. Rất nhiều người vô danh không có mặt trong những bức ảnh chúng ta chụp hôm nay, nhưng họ mãi mãi thắp lên ngọn lửa làm rực rỡ thành Tây Đô và tên tuổi của nhà cải cách lớn Hồ Quý Ly - mở ra triều đại nhà Hồ trong lịch sử nước Đại Việt cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV.

    Một công trình, một kỳ tích lớn lao và nhiều ý nghĩa như thành Tây Đô thì tìm hiểu mãi, thăm thú mãi cũng không hết. Lê Thám quay lại mở máy cho tôi xem một số hình ảnh vừa chụp. Đẹp lắm! Thế mà Lê Thám vẫn thất vọng. Anh cứ trăn trở làm thế nào để bức ảnh hôm nay gợi được ngày xưa... Thời Hồ Quý Ly táo bạo bỏ Đông Đô về Thanh Hoá xây thành và chuyển kinh đô về đó gọi là Tây Đô. Đấy là một thời kỳ bão táp của lịch sử Đại Việt chống xâm lược và xây dựng nền phong kiến tập quyền.

    Tôi đọc cho Lê Thám nghe một đoạn rút trong tập “Trường ca thành Tây Đô”:

                                     ...
    Bỏ Thăng Long mà đi
    Bỏ một vùng châu thổ mà đi

    Bạo thay!

    Quý Ly bỏ chính ngôi nhà của mình mà đi

    ngôi nhà vàng son óng từ chân lên tóc
    Bỏ Thăng Long mà đi
    Bỏ một vùng châu thổ mà đi

    Quý Ly về đất quê

    Tìm ra gốc rễ

    Tìm ra sông bể của mình.


    Đọc hết câu, tôi dừng lại. Lê Thám chau mày:

     -  Thơ các anh, bằng ngôn ngữ có thể mô tả lại thời đã qua, chứ ảnh thì khó lắm! Chụp cảnh của hiện tại để nói chuyện của sáu bảy trăm năm trước thật khó vô cùng.

    Anh chậm rãi nói từng lời:

     -  Nhưng tôi chưa chịu đâu, nhất định tôi sẽ chớp được thời cơ trời đất nói hộ, và tôi bấm máy.   

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét