Cổng chính Thành Nhà Hồ - Di sản văn hóa Thế giới. Ảnh: Bá Dũng
(THO) - Cuối tháng Giêng, hửng nắng, tôi và Lê Thám đèo xe máy long rong thăm lại Thành Tây Đô. Chúng tôi không đi theo đường cái từ thành phố Thanh Hoá lên Vĩnh Lộc. Lê Thám ngoặt xe đi theo dọc bờ sông Mã, qua đền thờ Dương Đình Nghệ, rập rình cầu phao Vồm, ra Quán Lào, lên cầu Kiểu, ngược Thành Tây Đô.
Lê Thám vừa lượn xe vừa nói:
- Tôi muốn có bức ảnh Thành Tây Đô vào lúc trời vần vũ, mây đen, mây trắng cuồn cuộn trên thành. Chưa đến mùa giông gió, chắc là không chụp được.
Tôi vừa nói ý mình vừa muốn hỏi:
- Trời nắng trong thì ánh sáng đẹp chứ sao ?
Lê Thám giảng giải một thôi nhiệt huyết về ảnh nghệ thuật, rồi hạ giọng:
- Ảnh đẹp về Thành Tây Đô đã nhiều người chụp được. Nhưng để có tấm ảnh ấn tượng gợi về lịch sử bạo liệt thời Trần - Hồ thì chưa có.
Chúng tôi đến thăm thành loanh quanh trong bao nhiêu câu chuyện. Đoạn đường từ phố huyện Vĩnh Lộc lên đang trong dịp thi công cống rãnh hai bên, bụi đất, ổ gà, sắt thép, xi măng bề bộn. Chúng tôi vượt qua, dừng lại trước cổng thành Nam. Ba cửa thành mở ra ba vòm trời muôn thuở. Bốn mặt đường thành đất đá hun hút gió. Hai con đường cắt vuông góc đi về bốn cửa Bắc,Nam, Đông, Tây. Lê Thám dừng trước cổng thành chăm chú nhìn đám người cuốc, thuổng đào bới đất đá. Họ đang khai quật tìm lại dấu tích sân duyệt binh từ thời nhà Hồ chống giặc Minh. Nếu đưa các chi tiết ấy vào ảnh thì rất dễ nhầm với toán người phá bờ, cuốc đất. Lê Thám đi đi lại lại tìm góc độ để chụp đoàn người áo đỏ, áo xanh, giương ô đi trên thành. Tôi không theo anh, một mình ngồi trên cỏ mà miên man suy nghĩ, thương nhớ xa xôi...
Chao ôi, biết bao điều huyền bí không thể nào lý giải nổi. Những tảng đá hàng chục tấn được đục đẽo vuông vức, bằng cách nào để đưa lên cao cả chục mét tự thuở xa xưa chưa có máy móc cơ giới; toà thành tráng lệ, bề thế chu vi vài cây số với khối lượng đất đá khổng lồ, không chất kết dính mà sừng sững vững chãi đã hơn sáu thế kỷ và trường tồn, lại chỉ thi công hoàn thành trong thời gian 3 tháng... Mới thấm thía dưới đám cỏ xanh rười rượi tôi đang ngồi đây là bao nhiêu mồ hôi, máu, xương ông cha một thuở “thành xây xương lính, hào đào máu dân...”!
Dòng sông Mã từ đầu nguồn đổ xuống đến khúc sông này phải qua vô vàn ghềnh thác. Tôi nhớ những lần chín mười tuổi rủ nhau đi đốn củi rừng, cốn bè cho xuôi về qua ngoằn ngoèo bờ đá núi. Một bên núi Mầu, một bên núi Do. Núi Do chặn ngang đường xuống cửa Bắc thành. Bốn bề rậm rì một vùng rừng núi hoang vắng. Năm sáu chục năm về trước, cọp đói khát vẫn thi thoảng tìm về. Dạo ấy xuống thành chỉ mỗi con đường qua dốc Eo Lê. Xuống dốc Eo Lê một đoạn là gặp quán ông Cao, mái tranh, vách nứa. Kẻ xuôi, người ngược, ai đi qua đến độ ấy cũng nghỉ chân uống nước, ăn bánh chưng ông Cao. Gọi là ông Cao bởi lẽ ông gầy, cao lêu khêu, khuôn mặt xương xẩu, râu ria lởm chởm. Trông ông có vẻ một tay võ nghệ ẩn tích ở nơi sơn cước. Qua khúc này, sông Mã lặn ngụp đổ xuống Gò Mã. Tương truyền thượng tướng Trần Khát Chân bị chém đầu ở chân núi Đốn Sơn. Ngài nhảy lên ngựa chạy đến Tam Tổng thì đầu rơi. Nơi ấy dân chúng lập đền thờ Ngài, gọi là Nghè Tam Tổng. Con ngựa phi sang bên kia sông ngã quỵ, cát sông ùn lên thành đống, gọi là Gò Mã. Qua khúc này, sông Mã chảy ngang nhà tôi bắt đầu hoàn hồn mở ra hai cánh bãi. Bên kia làng Thuý Đại mía xanh bạt ngàn, bên này phố Giáng bãi bồi rau, ngô ngút ngát, đêm đêm văng vẳng câu hò đò dọc. Những câu hò xuôi mái theo nhịp dô tả, dô tà. Người hóp đò cất lên từ câu ca dao, gọi lên từ lời trai gái đối đáp nhau hai bờ. Lâu lâu mới nghe được vài câu ca từ xa xưa thời chở đá xây thành...
“Đá núi Nhồi, đá Bông Hang
Ai đi cùng hội thì sang mạn thuyền ” ...
“Bao giờ thiên hạ thái bình
Tây Đô mở hội thì mình mới yên”...
Tây Đô đã có nhiều nhà sử học, nhà khảo cổ, nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo, những tao nhân mặc khách, nhiều bậc vua chúa đã đến tìm hiểu, thăm thú ngợi ca lưu lại trong sử sách, khắc chạm trên đá núi, văn bia, hang động và lan truyền trong dân gian. Tôi không viết lại lời người xưa, không dám đánh giá bình luận gì. Tôi chỉ muốn lưu giữ trong tâm hồn mình và bè bạn vẻ đẹp thâm trầm, kỳ vĩ của thành Tây Đô mà cha con Hồ Quý Ly đã có công khởi xướng. Hãy trả lại và giữ nguyên sự tích cùng với những nhân vật lịch sử đã phủ lên một màu huyền thoại để góp vào cuộc sống mơ mộng tiếp nối của các thế hệ mai sau. Tôi cho có ai đó đua nhau tranh cãi, mổ xẻ lạnh lùng, băm băm, bổ bổ vào lịch sử thì đó chính là cái bệnh thấy mình mà không thấy hết thiên hạ. Đó là một trong những hiện tượng mù tối của cá nhân hợm hĩnh thời nay.
Thành Tây Đô cách ta hơn sáu trăm năm, nhiều cảnh trí thiên nhiên và những tạo dựng của con người đã đổi thay muôn vẻ. Nhưng sông Mã, sông Bưởi, núi Đốn Sơn, động Hồ Công... vẫn nguyên chỗ cũ. Đá thành Tây Đô vẫn xanh thâm thẫm màu mắt lệ. Gạch đào lên trước cổng thành còn hầm hập màu lửa cháy. Người ta đang và sẽ liên tục trùng tu thành Tây Đô - một di sản văn hoá của nhân loại. Tôi tưởng tượng ra thành Tây Đô ngày mai hiện lên với dọc ngang cung điện. Bốn cổng thành mở ra những tụ điểm văn hoá làng xã: Tây Giai, Đông Môn, Phương Giai, Cẩm Bào, Bái Xuân, Cao Mật... Con đường Hoa Nhai xưa mở từ cửa Nam chạy thẳng xuống Đốn Sơn, Đàn Tế Nam Giao, đền thờ Trần Khát Chân sẽ nhộn nhịp, sầm uất và lộng lẫy.
Rồi tất cả chúng ta đều qua lối ngoặt cuộc đời. Thế hệ khác thay chúng ta lại đến thăm thú. Người trong nước, khách nước ngoài đến rồi đi. Thành Tây Đô ở lại khảm vào chân trời Xứ Thanh:
Một bài thơ bằng đá
Khúc thần thoại bằng đá
Bức phù điêu bằng đá.
Cuối ngày, Lê Thám đưa tôi vào thăm miếu thờ nàng Bình Khương (vợ viên đốc công thương chồng, nàng đập đầu vào đá ). Khói hương nghi ngút. Những cây nến cháy dở nhỏ giọt xuống mặt đá, ánh lên nửa sáng, nửa tối, nhập nhoà vào màu đá thâm u. Một cảm giác ma mị trùm lên, tôi như trong ảo giác, nhìn những giọt nến đỏ nhễu ra, rỏ xuống, loang trên mặt đá, rồi thẫm lại như những giọt máu đau đớn tuẫn tiết của nàng Bình Khương...
Chúng ta hãy đi cùng lịch sử thắp sáng lên lòng ngưỡng mộ, niềm tự hào về thành Tây Đô kỳ vĩ; thầm lặng cúi đầu tưởng niệm những dân phu, thợ thủ công, những nghệ nhân... đã nhập hồn mình vào gạch đá thành Tây Đô. Rất nhiều người vô danh không có mặt trong những bức ảnh chúng ta chụp hôm nay, nhưng họ mãi mãi thắp lên ngọn lửa làm rực rỡ thành Tây Đô và tên tuổi của nhà cải cách lớn Hồ Quý Ly - mở ra triều đại nhà Hồ trong lịch sử nước Đại Việt cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV.
Một công trình, một kỳ tích lớn lao và nhiều ý nghĩa như thành Tây Đô thì tìm hiểu mãi, thăm thú mãi cũng không hết. Lê Thám quay lại mở máy cho tôi xem một số hình ảnh vừa chụp. Đẹp lắm! Thế mà Lê Thám vẫn thất vọng. Anh cứ trăn trở làm thế nào để bức ảnh hôm nay gợi được ngày xưa... Thời Hồ Quý Ly táo bạo bỏ Đông Đô về Thanh Hoá xây thành và chuyển kinh đô về đó gọi là Tây Đô. Đấy là một thời kỳ bão táp của lịch sử Đại Việt chống xâm lược và xây dựng nền phong kiến tập quyền.
Tôi đọc cho Lê Thám nghe một đoạn rút trong tập “Trường ca thành Tây Đô”:
...
Bỏ Thăng Long mà đi
Bỏ một vùng châu thổ mà đi
Bạo thay!
Quý Ly bỏ chính ngôi nhà của mình mà đi
ngôi nhà vàng son óng từ chân lên tóc
Bỏ Thăng Long mà đi
Bỏ một vùng châu thổ mà đi
Quý Ly về đất quê
Tìm ra gốc rễ
Tìm ra sông bể của mình.
Đọc hết câu, tôi dừng lại. Lê Thám chau mày:
- Thơ các anh, bằng ngôn ngữ có thể mô tả lại thời đã qua, chứ ảnh thì khó lắm! Chụp cảnh của hiện tại để nói chuyện của sáu bảy trăm năm trước thật khó vô cùng.
Anh chậm rãi nói từng lời:
- Nhưng tôi chưa chịu đâu, nhất định tôi sẽ chớp được thời cơ trời đất nói hộ, và tôi bấm máy.
.Văn Đắc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét