.
Từ thành phố Huế, ngược dòng sông Hương đi về phía huyện Hương Trà, đến làng Hải Cát, du khách sẽ nhìn thấy một ngọn núi thấp cây cối xanh rì soi bóng xuống mặt nước phẳng lặng. Thấp thoáng ở lưng núi là màu ngói nâu đã rêu phong của những đền thờ cổ. Đó chính là Hòn Chén, một thắng cảnh ở Thừa Thiên - Huế nổi tiếng với lễ hội dân gian thờ và rước sắc mẫu Thiên Y Ana.
Hòn Chén nhìn từ sông Hương |
Sơn - hay còn gọi là Hòn Chén.
Khúc sông qua Hòn Chén được xem là nơi sâu nhất của dòng sông Hương. Không ai biết người Chăm xưa đã dựng đền thờ cúng Thánh Mẫu Thiên Y Ana ở núi này từ bao giờ. Thời nhà Nguyễn, các vua, chúa tiếp tục tu sửa, mở rộng đền. Đến nay, đã có hàng chục công trình kiến trúc xinh xắn nép mình dưới bóng râm của một khóm rừng cổ thụ tán lá um tùm.
Từ bến nước bên sông, theo những bậc thang lên đến các ngôi đền cao thấp, du khách cảm thấy mình đang dần đi vào một nơi hoàn toàn thanh tịnh, linh thiêng. Lên đến đền cao nhất, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một bức tranh sơn thủy màu xanh với các sắc độ đậm nhạt khác nhau của sông nước, làng mạc, núi non hàng hàng lớp lớp.
Cụm đền thờ ở Hòn Chén gồm điện thờ chính là Minh Kính Ðài nằm ở giữa, mặt hướng ra sông; bên phải là nhà Quan Cư, Trinh Cát viện,
chùa Thánh; bên trái là dinh Ngũ Vị Thánh Bà; bàn thờ Các Quan, động thờ ông Hạ Ban (tức ông Hổ - con cọp), am Ngoại Cảnh. Dưới bờ sông, cuối đường bên trái là am Thủy Phủ.
Minh Chính Đài |
thánh khác thuộc vào hàng đồ đệ của các thánh thần nói trên. Như vậy, quần thể đền Hòn Chén thờ nhiều tín ngưỡng khác nhau. Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu vẫn là chủ đạo.
Hàng năm vào dịp tháng 3 và tháng 7 Âm lịch, điện Hòn Chén lại tấp nập người trẩy hội Thiên Y Ana Thánh Mẫu. Nghi lễ diễn ra rất long trọng. Lễ hội giống như một festival văn hóa dân gian trên sông Hương.
Khi đó dòng sông tấp nập những chiếc thuyền kết đôi với cờ phướn, hương án đủ màu sắc hành hương về điện Hòn Chén. Tại khu vực điện sẽ diễn ra lễ Thánh Mẫu tuần du, lễ tế làng Hải Cát, lễ cung nghinh Thánh Mẫu hồi loan về điện, lễ phóng sanh, phóng đăng...
Trải qua nhiều thăng trầm, gần đây lễ hội này đã được phục hồi và được tổ chức mỗi năm một náo nhiệt hơn. Địa danh Hòn Chén theo đó cũng ngày càng được nhiều du khách biết đến. Dù có chút xô bồ trong dịp lễ, các tập tục truyền thống mang đậm màu sắc văn hóa dân gian địa phương vẫn sẽ cho du khách biết thêm nhiều điều lý thú về lịch sử của vùng đất này.
Nguồn: Doanhnhansaigon.vn
.Huyền thoại “rùa thần” nặng nghìn ký dưới lòng sông Hương
Bấy lâu nay, nhiều người dân, du khách vẫn thường nhắc đến con rùa khổng lồ thi thoảng xuất hiện trên dòng sông Hương, đoạn trước mặt điện Hòn Chén (thuộc thôn Ngọc Hồ, phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên - Huế). Người dân địa phương gọi đó là “rùa thần”.
Đó là “ngài”, do mỗi lần “ngài” nổi lên mặt nước ắt báo trước cho một biến cố, tai ương nào đó sắp sửa ập đến. Vậy sự thật về con rùa khổng lồ này có hay không? Chúng tôi đã tìm gặp những người khẳng định họ chính mắt nhìn thấy “rùa thần”.Sông Hương đoạn trước điện Hòn Chén - nơi được cho là có “rùa thần” nghìn ký xuất hiện
Huyền tích đền thiêng
Tương truyền, điện thờ Hòn Chén (còn có tên điện Huệ Nam) là nơi người Chằm thờ nữ thần Ponagar (Nữ thần Mẹ xứ sở), sau đó người Việt tiếp tục thờ bà dưới tên gọi Thánh mẫu Thiên y A Na - thánh địa đạo Mẫu của miền Trung hiện nay. Theo những bậc bô lão làng Ngọc Hồ, ngày trước có đôi vợ chồng lão ngư không rõ quê quán thường đến đoạn sông trước điện đánh cá.
Một hôm, người chồng lặn xuống đáy sông gỡ lưới bị vướng vào đá. Ở trên thuyền bà vợ đợi mãi nhưng không thấy chồng trở lên. Bà kéo sợi dây buộc vào người chồng lúc lặn xuống thì thấy nhẹ tâng. Nghĩ rằng chồng đã chết, bà ôm mặt khóc ròng rã mấy ngày liền trên sông. Thế nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra khi gần một tuần sau, lão ngư không biết từ đâu đột ngột xuất hiện tại nhà trước sự ngỡ ngàng của bao người.
Khi được hỏi, lão ngư kể rằng đã lọt vào chốn thiên đường dưới đáy sông. Ông kể rằng dưới lòng điện Hòn Chén là ngôi động lớn có thần tiên sinh sống. Họ căn dặn ông lão khi trở về trần gian không được lộ bí mật này với ai, nếu không sẽ phải chết. Dù nhớ rõ lời dặn, nhưng vì không giữ được cảm xúc nên ông buột miệng kể ra. Vậy là đúng mấy hôm sau lão ngư kia mắc bệnh lạ qua đời.
Càng kỳ bí hơn khi những thợ lặn săn cá sau này đồng khẳng định, bên dưới lòng sông ở chân điện Hòn Chén có một cửa hang rộng bằng căn nhà cấp bốn. Tuy nhiên, không ai đủ can đảm lặn vào bên trong, bởi cửa hang tối sậm, đen sì. Từ đó, ai nấy đều tin rằng sự tích vợ chồng lão ngư đánh cá không hẳn chỉ là lời đồn thổi hoang đường.
Ông Huỳnh Ngọc Hiển (58 tuổi) - đã 22 năm sống cạnh điện Hòn Chén - cho biết thêm, ngày trước điện rất thiêng. Mỗi lần chèo đò ngang qua điện phải thật nhẹ nhàng, không được để mặt sông gợn sóng lớn. Người chèo đò phải ăn mặc chỉnh tề, đàng hoàng. Ông Hiển kể lại câu chuyện tận mắt mình chứng kiến: “Thời chống Mỹ, có đám lính dám cả gan vứt những tấm liễn đối trong điện xuống sông. Hôm sau đám lính ấy ra sông tắm mát thì bất ngờ 3 tên bị chết “bất đắc kỳ tử”. Bụng tên nào tên đó trương phình kỳ lạ, dù đã được cứu vớt tức thì. Thánh mẫu đã trừng trị bọn chúng do tội hỗn xược đó”.
Bản thân ông Hiển hồi trẻ từng vô ý bẻ cành bội đem về nấu nước uống cũng bị đau bụng suốt tuần lễ. Chạy chữa mãi không khỏi, bất chợt nghĩ đến việc mình bẻ cành cây tại điện Huệ Nam, ông Hiển vội thắp ba cây nhang lên điện khấn nguyện liền khỏi bệnh ngay.
Sự thiêng liêng ở điện Hòn Chén không ai không biết đến. Người dân làng Ngọc Hồ thuật lại thời cha ông họ không ai dám tùy tiện lên điện. Chỉ những dịp lễ lớn, dân làng mới tổ chức hành lễ lên điện tưởng nhớ công ơn Thánh mẫu. Người ta còn cho rằng, chính nhờ ơn Thánh mẫu phù trợ nên từ bao đời nay làng Ngọc Hồ mùa màng bội thu, tiết khí yên bình.
Giai thoại về “rùa thần” nghìn ký
Trong tất cả các giai thoại về điện Hòn Chén, ly kỳ nhất vẫn là câu chuyện về “rùa thần” thường nổi lên mặt sông báo ứng. Nói vậy bởi mỗi khi “rùa thần” nổi là có một điềm dữ sắp sửa xảy ra. Có lẽ chưa ai quên trận lũ hồi năm 1999 làm hàng trăm người chết ở Thừa Thiên – Huế. Riêng với người dân Ngọc Hồ, họ nói đã biết trước được cơn đại hồng thủy này nhờ “rùa thần” báo tin.
Anh Lê Đình Mỹ - người làng Ngọc Hồ - cho biết, anh từng ba lần chứng kiến “rùa thần” nổi. Trong đó, có lần trước trận lũ năm 1999 hơn một tháng. “Năm đó rùa nổi lên tại đoạn sông thuộc phường Kim Long. Rùa to lắm, chỉ thấy mai rùa đen sì, to bằng chiếc xe công nông ấy. Cụ rùa nổi chừng khoảng 15 phút thì lặn xuống lại, người dân kéo đến xem chật cứng cả đường. Đúng một tháng sau đó trời chuyển mưa to gió lớn, nước lũ ngập đến mái nhà” - anh Mỹ nhớ lại.
Bảy năm sau đó (năm 2006), khi cơn bão Xangsane với mức độ tàn phá kinh hoàng ập đến, người ta cho hay trước đó “rùa thần” cũng đã nổi lên ứng báo. Rút kinh nghiệm lần trước nên trong trận bão này, làng Ngọc Hồ không bị thiệt hại gì đáng kể. Một nhân chứng nữa thừa nhận từng nhìn thấy “rùa thần” là anh Trần Viết Hiếu. Theo lời anh Hiếu kể lại, khoảng 5 - 6 năm về trước, trong chuyến đi hành lễ tại điện Hòn Chén, “rùa thần” bất ngờ nổi lên làm một chiếc thuyền nghiêng đổ. Rất may đội canô cứu hộ gần đó đã kịp thời cứu vớt những nạn nhân rơi xuống sông, không có thiệt hại về người. Lần khác, khi đang câu cá gần bờ sông, Hiếu thêm lần nữa sửng sốt khi giữa lòng sông bọt khí sủi lên từng bọng lớn, tiếp đó chiếc mai rùa khổng lồ từ từ xuất hiện. Tuy nhiên, không hiểu lý do vì sao lần này “ngài” chỉ nổi chừng vài phút rồi lặn mất dấu.
Bây giờ đến thôn Ngọc Hồ hỏi chuyện “rùa thần” ai cũng biết, người thì ước đoán cụ rùa to bằng xe bagác, người lại cho rằng cụ rùa to bằng chiếc xe công nông. Riêng ông Huỳnh Ngọc Hiển lại chắc chắn như đinh đóng cột: “Thực chất đó là con trắn, nhưng vì hình dáng khá giống rùa nên người ta quen gọi là rùa. Trắn dẹt hơn rùa và có khả năng sống dưới nước lâu. Nếu như rùa một hai ngày phải nổi để hít thở ôxy thì trắn có khi cả tháng mới nổi khỏi mặt nước một lần. Con trắn sống ở dưới điện Hòn Chén to hơn cả nền nhà 5m×7m hiện tôi đang ở đây này”.
Chất giọng trang nghiêm, ông Hiển kể lại lúc trước từng nghe kể nhiều về “rùa thần” nhưng không tin, ông chỉ nghĩ đó là lời đồn thổi do những người mê tín dựng nên. “Nhưng hè năm 2004, anh Thắng chuyên chở khách sang sông mách nhỏ với tôi giữa sông có con rùa to lắm, không tin cứ nhằm ngày mồng 1 hoặc rằm lên sẽ thấy. Tò mò nên đợi đến ngày rằm tháng đó, tôi neo thuyền đứng trên bờ nheo mắt rình xem thực hư thế nào. Đúng giữa trưa, mặt sông bỗng nhiên nổi tăm lớn sùng sục như nước đang sôi, sau đó là con vật khổng lồ lù lù nổi lên khỏi mặt nước chừng 20cm. Riêng cái đầu của “ngài” đã to bằng chiếc am thờ cao 3m. Lưng “ngài” đen và rộng hơn nền nhà này kia. Lúc lặn xuống, ''ngài'' phun nước lên cao, bọt nước nổi liên tục mấy giờ sau mới hết” - ông Chiến vừa nói vừa chỉ tay xuống nền nhà của mình so sánh.
Người đàn ông này còn cho biết thêm, theo ước tính con vật mà ông gọi là trắn phải nặng đến khoảng 10 tấn. Như vậy, nếu phán đoán của ông Hiển phần nào là đúng thì “rùa thần” dưới sông Hương to gấp nhiều lần so với cụ rùa ở hồ Gươm mà chúng ta từng biết đến (?!). Ông Hiển còn suy đoán “rùa thần” sống trong hang đá dưới lòng điện Huệ Nam và thi thoảng mới xuất hiện vào các ngày sóc, vọng (ngày mồng một, ngày rằm, lễ vía Thánh mẫu…). Thời gian “rùa thần” xuất hiện thường vào sáng sớm, giữa trưa hoặc chiều tối.
Nói về lai lịch “rùa thần”, ông Hiển ''bật mí'' từng nghe ông nội, bố mình kể lại từ xưa trên núi Ngọc Trản (nơi điện Hòn Chén tọa lạc) đã có con rùa lạ sinh sống, không ai dám săn bắt. Nhiều ý kiến khác lại cho rằng “rùa thần” xuất thân từ chùa cổ Thiên Mụ. “Nghe nói con rùa được nuôi trong chùa, về sau rùa lớn quá nên sư thầy đem thả xuống sông Hương. Sau đó, “rùa thần” chuyển đến sinh sống tại đoạn sông trước điện Huệ Nam ngày nay” - một người dân khác nhận định.
Tuy nhiên, thời gian trở lại đây người ta không còn chứng kiến cảnh “rùa thần” nổi lên như trước nữa. Ông Hiển hành nghề thả vó trên sông nhẩm tính ít nhất đã 8 năm nay ông không thấy “ngài” xuất hiện. Sự vắng bóng của “rùa thần” được giải thích dưới nhiều góc độ khác nhau. Có ý kiến cho rằng trời đất yên bình nên “ngài” không nổi lên làm gì. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, thời gian gần đây hoạt động thuyền bè trên sông đi lại tấp nập, phá tan sự tĩnh lặng nên “rùa thần” không thể nổi lên. “Tàu bè khai thác cát sạn, thuyền du lịch nổ máy ầm ầm thế kia thì con vật nào còn dám ngoi đầu lên chứ? Ngày trước khúc sông này vốn tĩnh lặng, trong lành lắm. Đất lành chim mới đậu, sông nước có tĩnh “ngài” mới lên được chứ” - cụ Ngái, bô lão thôn Ngọc Hồ khi tiếp chuyện chúng tôi bên vỉa hè đường lên điện Hòn Chén - nói.
Như vậy, rất nhiều nhân chứng đã khẳng định họ tận mắt nhìn thấy con rùa khổng lồ tại đoạn sông Hương thuộc làng Ngọc Hồ, phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà. Chúng tôi chỉ muốn chia sẻ câu chuyện này để những nhà chuyên môn có thể tìm hiểu, nghiên cứu. Biết đâu một ngày nào đó, cả thế giới sẽ chấn động với phát hiện về con rùa có kích thước lớn nhất tại Việt Nam thì sao?
Vua Đồng Khánh từng xưng thánh tại điện Hòn Chén
Đồng Khánh - vị vua được thực dân Pháp dựng lên sau khi Vua
Hàm Nghi rời kinh thành ngày 23/5 năm Ất Dậu (5/7/1855) để tiến hành
cuộc kháng chiến chống Pháp - đã thực sự mất hết quyền lực trước sự bảo
hộ và thao túng của thực dân Pháp. Mặc dù được ngồi trên ngai vàng,
nhưng là ngai vàng do người Pháp “ban tặng”, mọi quyền hạn đều thuộc về
thực dân Pháp. Đứng trước những bi kịch của triều đại và bản thân, nhà
vua gần như đã gửi gắm linh hồn của mình cho Thánh mẫu. Sau khi lên
ngôi, điện Hòn Chén được ông cho sửa lại, đổi tên thành Huệ Nam Điện,
với đầy đủ hệ thống thờ tự như bây giờ.
Đặc biệt, từ vị thế vua - một người đứng trên bách thần để phong thần - ông đã hoà nhập mình vào với thế giới thiêng liêng, đồng hoá giữa con người thật với thần linh khi tự nguyện biến mình thành một trong thất thánh ở điện Huệ Nam. Không những thế, vai vế của ông cũng chỉ là em út trong 7 vị đó. Đây là một việc làm mà xưa nay chưa thấy xảy ra đối với các vua chúa của Việt Nam. Cùng với việc phong thánh cho mình, Đồng Khánh đã sắc phong thượng đẳng thần cho Thánh mẫu Thiên y A Na và trung đẳng thần cho những vị khác. |
Theo Vân Sơn - Thy Yến
Báo Lao độngThực hư chuyện "phát tích" ở điện Hòn Chén
Dân Việt - Con sông dài thơ mộng, những khúc hát dân ca và điệu hò đằm thắm... đã tạo nên nét thơ mượt mà, riêng có ở nơi sông Hương xứ Huế. Bên cạnh đó cũng không kém phần uy nghi, linh thiêng là những ngôi điện với bao chuyện huyền bí.
Tại thượng nguồn sông Hương, đoạn chảy qua địa phận xã Hương Thọ,
huyện
Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế, có một ngôi điện tên là Hòn Chén
(còn có tên là điện Huệ Nam), một trong những thánh địa của đạo Mẫu.
Hằng năm, cứ vào dịp Xuân tế (tháng ba), Thu tế (tháng bảy), người dân khắp miền Trung nô nức đi lễ hội điện Hòn Chén. Đã từ lâu, câu nói quen thuộc này được từng người dân Huế nhắc đến khi nghĩ về lễ hội như một dịp tri ân với người cha sông núi, người mẹ xứ sở. Bởi rằng, thần linh cũng đều sinh ra từ cha và mẹ. Điện Hòn Chén được cho là nơi Thánh Mẫu Thiên Y A Na giáng trần, hoá thân thành người mẹ xứ sở trong tâm thức người Việt. Và xung quanh ngôi điện này có vô số giai thoại ly kỳ theo kiểu chẳng nơi nào có được.
Huyền bí chuyện "phát tích"!
Nhiều tài liệu để lại, có nhiều truyền thuyết về câu chuyện phát tích của bà Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Theo người Chăm, Thánh Mẫu Thiên Y A Na là sự hiện thân của nữ thần Pô Nagar; còn người Việt thì Việt hóa thành Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Nữ thần Poh Nagar do bọt nước biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi. Một hôm, nước biển dâng cao đưa bà vào bến sông Yjatran ở Kauthara (Cù Huân). Sấm trời và gió liền nổi dậy báo cho muôn loài biết tin bà giáng thế. Tức thì, nước trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống đón mừng bà, và núi cũng hạ mình thấp xuống để đón rước bà. Khi bà bước lên bờ, thì cây cong xuống để tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến chầu hai bên đường, và hoa cỏ cũng xinh tươi rực rỡ hơn để điểm hương cho mỗi bước chân bà đi. Rồi nữ thần Poh Nagar dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương cùng lúa bắp…
Nhiều phép thuật, bà cũng rất nhiều chồng. Nơi hậu cung của bà, có đến 97 ông. Nhưng trong số đó, chỉ ông Pô Yan Amo là có uy quyền hơn cả. Sống với ngần ấy ông chồng, nhưng bà chỉ sinh được 38 người con gái. Những người con ấy, sau đều thành thần, trong số có ba người được bà truyền nhiều quyền phép, đó là Pô Nogar Dara, Rarai Anaih (cả hai được người dân vùng Phan Rang tôn thờ) và Pô Bia Tikuk (được người dân Phan Thiết tôn thờ).
Đến khi đất Kauthara thuộc về người Việt, thì nữ thần Poh Nagar cũng
trở thành vị nữ thần của người Việt với tên gọi là Thiên Y A Na và sự
tích của bà cũng được Việt hóa. Tuy những lời kể có đôi nét khác nhau,
nhưng đại để như sau: Xưa kia tại núi Đại An (nay là Đại Điền), có hai
vợ chồng tiều phu già không con, trồng rẫy dưa. Dưa chín, thường bị hái
trộm. Rình rập, một đêm ông lão bắt được thủ phạm.
Khi biết được kẻ hái là một cô gái nhỏ xinh đẹp nhưng mồ côi, ông liền mang về nuôi. Không ngờ, cô gái ấy vốn là tiên nữ, vì lý do nào đó, phải giáng trần! Một hôm, mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều, khiến tiên nữ thêm nhớ cảnh tiên xưa. Cho nên, cô lấy đá và hoa lá tạo thành một hòn giả sơn (hòn non bộ).
Cho rằng việc làm đó không thích hợp đối với một phụ nữ, nên người cha nuôi có nặng lời quở mắng. Vì vậy, nhân thấy một khúc kì nam đang trôi dạt, cô bèn biến thân vào khúc cây ấy, để xuôi ra biển cả rồi tấp vào bờ biển nước Trung Hoa.
Mùi hương từ khúc kì nam lan tỏa khắp nơi, khiến nhiều người đến xem, nhưng không một ai nhấc lên nổi. Thái tử nước ấy, nghe tin đồn tìm đến, rồi nhẹ nhàng vác khúc gỗ kia mang về cung. Đêm nọ, thái tử thấy có bóng người lạ ẩn hiện từ khúc cây kì nam. Rình rập mấy đêm, thì chàng bắt được.
Nghe cô gái xinh đẹp tự xưng mình là Thiên Y A Na và khi nghe chuyện của nàng xong, ngay hôm sau, Thái tử đã tâu với vua cha cho phép cưới nàng làm vợ. Sống với Thái tử, Thiên Y A Na sinh được một trai đặt tên là Tri và một gái đặt tên là Quí.
Một hôm, Thiên Y A Na nhớ cảnh cũ người xưa, bèn dắt hai con nhập vào khúc kì nam, vượt biển trở về cố quốc. Khi biết cha mẹ nuôi đã mất, bà cho xây đắp mồ mả, cho sửa sang lại nhà cửa để có chỗ thờ phụng hai ông bà.
Thấy dân chúng ở Đại An hãy còn thật thà, chất phác; bà liền đem những gì học được ở quê chồng, như phép tắc, lễ nghi ra chỉ dạy và dạy cả những việc như cày cấy, kéo sợi dệt vải... để người dân quê mình biết cách mưu sinh. Ít lâu sau, một con chim hạc từ trên mây cao bay xuống, rước bà và hai con về cõi tiên. Nhớ ơn đức, nhân dân địa phương cùng nhau xây tháp, tạc tượng phụng thờ.
Khi đến Đại An, không tin Thiên Y A Na và hai con đã rời bỏ cõi tục, bộ hạ của thái tử đã tra khảo người dân rất dữ, vì ngỡ họ cố tình che giấu mẹ con bà. Bị oan ức và đau đớn, nhiều người dân đã thắp hương cúng vái bà. Liền đó, một trận cuồng phong nổi dậy, cát chạy đá bay... và toàn bộ những người đến từ phương bắc đều bị cát vùi thây, thuyền bè của họ cũng bị đá đánh chìm hết…
Theo lời người xưa truyền lại, thì những cụm đá ở trước cửa tháp Bà (tức tháp Po Nagar ở Nha Trang), giữa cửa sông Cù, là những viên đá đã đánh đắm cả đoàn thuyền vừa kể. Sự tích này đã được Kinh lược Phan Thanh Giản chép lại thành bài ký, khắc lên bia đá, dựng sau tháp Bà ở Nha Trang vào năm Tự Đức thứ 9 (1856).
Ngoài ra, vào năm 1925, bác sĩ Sallet chép lời người dân địa phương kể lại, thêm thắt vài chi tiết, để có một sự tích nữa, tóm gọn như sau: Một thái tử Trung Hoa qua Việt Nam tìm vợ, gặp khúc trầm to, muốn đưa lên thuyền, nên cho lính chặt ra làm ba khúc. Tức thì, giông bão nổi lên làm đắm thuyền. Khúc trầm trôi ngược vào sông, tấp vào khu vườn ở làng Bình Thủy (Phan Rí). Do được báo mộng, chủ vườn thức dậy, thì thấy khúc trầm to có ghi chữ Thiên Y (Thiên Y A Na) và hai khúc trầm nhỏ (hai đứa con), và ông đã đem lên cất miếu thờ. Lâu ngày, gỗ trầm hóa đá.
Nông dân bỗng thành "ông hoàng bà thánh"…
Thuyền hoa cũng nói lên được nhiều điều. Giàu thì thuyền lớn, trang hoàng lộng lẫy, kèn trống chát tai, nghèo thì đơn giản hơn một chút, thậm chí thuyền không có một bông hoa, tiếng kèn nào cũng có thể tham gia hội. Nhưng hình như không có ai vì thế mà buồn, bởi “đi lễ hội, đến với Mẹ đôi khi chỉ cần tấm lòng thành là đủ” - chị Liên, một trong những chủ thuyền tâm sự.
Đứng dưới chân núi Ngọc Trản, tục truyền rằng nơi đây một năm hai lần đức Thánh mẫu Thiên Y A Na giáng trần để ban phước lành cho chúng sinh đó là cứ vào dịp Xuân tế (tháng ba), Thu tế (tháng bảy). Vào những ngày này hàng chục thuyền nhỏ, thuyền to san sát tấp nập như phiên chợ nổi Cái Răng. Người ngườì nô nức kéo nhau đi trẩy hội. Với một mong muốn là cầu cho gia đình được ấm no, hạnh phúc và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.
Chị Nguyễn Thị Hoa, 47 tuổi, tiểu thương bán cá ở chợ Hội An, Quảng Nam, giới thiệu với tôi chị là “con” của đức mẹ Thiên Y A Na. Chị cùng với 20 người khác cơm đùm gạo bọc ra Huế trước đó một hôm để chuẩn bị mọi việc. Chị nói: “Dù đi như thế này tốn bạc triệu, nhưng gần 10 năm nay, năm mô tui cũng một năm hai lần ra hầu mẹ để mẹ ban phúc, tạo phước”.
Chị Dương Thị Quế, 32 tuổi, đến từ Quảng Bình lại khác, chị xưng là... lính thánh, tức những người được quyền hầu đồng (lên đồng). Chị kể: “Để làm được lính thánh thì phải có người giới thiệu với chủ am, rồi dâng lễ vật. Tốn kém lắm, nhưng lại vui, và quan trọng nhất là gia đình được bình yên, mình luôn thanh thản”.
Điều buồn cười là phần đông ông đồng bà cốt và con nhang đệ tử chẳng mấy ai rành rẽ sự tích Mẫu, dẫu họ tự nhận là tín đồ thuần thành của Thiên Tiên Thánh giáo. Khác nhiều người nghĩ, với tên gọi này, Thiên chẳng phải trời, Tiên chẳng phải nhân vật yên vui và có nhiều phép mầu.
Chuyên luận Tín ngưỡng dân gian Huế của Trần Đại Vinh (NXB Thuận Hoá, Huế, 1995) ghi nhận: "Cách đặt tên Thiên Tiên Thánh giáo được giải thích là: Thiên là huyện Thiên Bản, Tiên là làng Tiên Hương, tức thôn Vân Cát, làng An Thái, là nơi giáng trần lần thứ hai của Liễu Hạnh công chúa. Hai chữ Thánh giáo thể hiện một nguyện vọng của tổng hội xin thừa nhận tín ngưỡng này như một tôn giáo thiêng liêng.”
Lễ hội điện Huệ Nam thường kéo dài đến 3 ngày với rất nhiều nghi lễ phức tạp. Tôi chỉ nói đến phần hầu đồng, bởi để hướng tới những điều tốt lành trong cuộc sống, người Chăm xưa và sau đó là người Việt đã coi những buổi hầu đồng, rước bóng như là sự tìm về với cội nguồn của tâm linh, sự thăng hoa của tôn giáo phồn thực để tìm sự an ủi, vỗ về ở một thế giới khác. Có đến đây mới thấy sức mạnh, niềm tin của con người vào thế giới thần linh thật lớn lao.
Những “lính thánh” ở điện Hòn Chén thuộc mọi đối tượng và mọi tầng lớp trong xã hội: Từ phụ nữ đến đàn ông, từ trẻ nhỏ đến người già, từ những người buôn bán đến những người nông dân cực khổ, thậm chí là cả tầng lớp trí thức. Họ đến đây với nhiều tâm trạng khác nhau, có người thì muốn cầu cho được bình an, sức khoẻ; có người mong được giàu có, sung túc; người mong được thuận hòa mọi bề, con cái thành đạt.
Người lên đồng, dù nam hay nữ, đều phục trang cực kỳ đặc biệt. Áo mớ ba mớ bảy nhiều màu, thắt lưng kim tuyến, quần thắt chẽn ống, giày vải hoặc hài nhung, tóc chít khăn xếp xanh đỏ, vai khoác lụa là, tai, tay, cổ và cả cườm chân đều đeo vàng bạc, ngọc ngà lấp lánh, mặt nhồi phấn, môi tô son, mắt kẻ chì. Có trường hợp phải bôi mặt đen sì, vai quàng dây leo, eo đóng khố, tay cầm khèn hoặc quấn luôn con... rắn (làm giả bằng rễ cây) nếu nhập vai ông Bảy hay ông Chín Thượng Ngàn. Lại có lúc họ còn đội lốt cọp để làm Hạ Ban, tức thần hổ.
Một vũ điệu khá phổ biến trong hầu giá là múa mồi: dùng tay kẹp ống giấy tròn nhỏ đã tẩm sẵn paraffin/paraffine/thạch chá, đốt cháy phừng phừng, mà uốn éo. Trò múa lửa này trông khá ngoạn mục, nhất là về đêm, tuy nhiên chính nó là nguyên nhân gây ra không ít vụ hoả hoạn làm thiêu rụi miếu đền, nhà cửa!
Hơn bao giờ hết, đây cũng là cơ hội để họ được giải tỏa mọi ẩn ức trong cuộc sống, là nơi để họ được thể hiện bản thân mình. Trong trang phục ngũ sắc, tượng trưng cho kim, mộc, thủy, hỏa, thổ một nông dân quanh năm chân lấm tay bùn như chị Quế ở Quảng Bình bỗng chốc hóa thân thành một bà tiên, ông hoàng đầy uy nghi, phi phàm. Đấy cũng là cách để con người tiếp cận với thần thánh, giúp họ làm những việc, thực hiện những ước mơ, khao khát đã bị đánh cắp trong cuộc sống đời thường.
Ban thờ bà Thánh Mẫu Y Na uy nghiêm.
Hằng năm, cứ vào dịp Xuân tế (tháng ba), Thu tế (tháng bảy), người dân khắp miền Trung nô nức đi lễ hội điện Hòn Chén. Đã từ lâu, câu nói quen thuộc này được từng người dân Huế nhắc đến khi nghĩ về lễ hội như một dịp tri ân với người cha sông núi, người mẹ xứ sở. Bởi rằng, thần linh cũng đều sinh ra từ cha và mẹ. Điện Hòn Chén được cho là nơi Thánh Mẫu Thiên Y A Na giáng trần, hoá thân thành người mẹ xứ sở trong tâm thức người Việt. Và xung quanh ngôi điện này có vô số giai thoại ly kỳ theo kiểu chẳng nơi nào có được.
Huyền bí chuyện "phát tích"!
Nhiều tài liệu để lại, có nhiều truyền thuyết về câu chuyện phát tích của bà Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Theo người Chăm, Thánh Mẫu Thiên Y A Na là sự hiện thân của nữ thần Pô Nagar; còn người Việt thì Việt hóa thành Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Nữ thần Poh Nagar do bọt nước biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi. Một hôm, nước biển dâng cao đưa bà vào bến sông Yjatran ở Kauthara (Cù Huân). Sấm trời và gió liền nổi dậy báo cho muôn loài biết tin bà giáng thế. Tức thì, nước trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống đón mừng bà, và núi cũng hạ mình thấp xuống để đón rước bà. Khi bà bước lên bờ, thì cây cong xuống để tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến chầu hai bên đường, và hoa cỏ cũng xinh tươi rực rỡ hơn để điểm hương cho mỗi bước chân bà đi. Rồi nữ thần Poh Nagar dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương cùng lúa bắp…
Nhiều phép thuật, bà cũng rất nhiều chồng. Nơi hậu cung của bà, có đến 97 ông. Nhưng trong số đó, chỉ ông Pô Yan Amo là có uy quyền hơn cả. Sống với ngần ấy ông chồng, nhưng bà chỉ sinh được 38 người con gái. Những người con ấy, sau đều thành thần, trong số có ba người được bà truyền nhiều quyền phép, đó là Pô Nogar Dara, Rarai Anaih (cả hai được người dân vùng Phan Rang tôn thờ) và Pô Bia Tikuk (được người dân Phan Thiết tôn thờ).
Vua Đồng Khánh hạ mình xưng thần
Sử
có chép, năm 1885, sau khi lên ngôi thay vua Hàm Nghi, vua Đồng Khánh
đã cho tu sửa lại điện Hòn Chén và… “hạ mình” xưng thần dưới trướng của
bà Thiên Y A Na. Theo truyền thuyết kể lại, chính bà Thiên y A Na đã cho
hoàng tử biết ngày đăng quang và ngày tạ thế sau 3 năm.Sự thật đúng như
lời tiên đoán của bà. Thấy linh nghiệm, sau khi lên ngôi, vua Đồng
Khánh xây lại đền khang trang, đổi tên ngôi đền là Huệ Nam điện để tỏ
lòng biết ơn Thánh Mẫu. (Huệ Nam nghĩa là ban ân huệ cho nước Nam, vua
Nam).
Sách Đại Nam thực lục còn chép: “Vua
khi còn ẩn náu thường chơi xem núi ở đây. Mỗi khi đến cầu khẩn, phần
nhiều có ứng nghiệm. Đến nay vua phê bảo rằng: Đền Ngọc Trản thực là núi
Tiên Nữ, linh sơn sáng đẹp muôn đời, trông rõ là hình thế như con sư tử
uống nước sông, quả là nơi chân cảnh thần tiên. Đền ấy nhờ được linh
khí đắc nhất, cứu người độ đời, giúp cho phúc lợi hàng muôn, giúp dân
giữ nước. Vậy cho đổi đền ấy làm điện Huệ Nam để biểu hiện ơn nước một
phần trong muôn phần”.
|
Khi biết được kẻ hái là một cô gái nhỏ xinh đẹp nhưng mồ côi, ông liền mang về nuôi. Không ngờ, cô gái ấy vốn là tiên nữ, vì lý do nào đó, phải giáng trần! Một hôm, mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều, khiến tiên nữ thêm nhớ cảnh tiên xưa. Cho nên, cô lấy đá và hoa lá tạo thành một hòn giả sơn (hòn non bộ).
Cho rằng việc làm đó không thích hợp đối với một phụ nữ, nên người cha nuôi có nặng lời quở mắng. Vì vậy, nhân thấy một khúc kì nam đang trôi dạt, cô bèn biến thân vào khúc cây ấy, để xuôi ra biển cả rồi tấp vào bờ biển nước Trung Hoa.
Mùi hương từ khúc kì nam lan tỏa khắp nơi, khiến nhiều người đến xem, nhưng không một ai nhấc lên nổi. Thái tử nước ấy, nghe tin đồn tìm đến, rồi nhẹ nhàng vác khúc gỗ kia mang về cung. Đêm nọ, thái tử thấy có bóng người lạ ẩn hiện từ khúc cây kì nam. Rình rập mấy đêm, thì chàng bắt được.
Nghe cô gái xinh đẹp tự xưng mình là Thiên Y A Na và khi nghe chuyện của nàng xong, ngay hôm sau, Thái tử đã tâu với vua cha cho phép cưới nàng làm vợ. Sống với Thái tử, Thiên Y A Na sinh được một trai đặt tên là Tri và một gái đặt tên là Quí.
Một hôm, Thiên Y A Na nhớ cảnh cũ người xưa, bèn dắt hai con nhập vào khúc kì nam, vượt biển trở về cố quốc. Khi biết cha mẹ nuôi đã mất, bà cho xây đắp mồ mả, cho sửa sang lại nhà cửa để có chỗ thờ phụng hai ông bà.
Thấy dân chúng ở Đại An hãy còn thật thà, chất phác; bà liền đem những gì học được ở quê chồng, như phép tắc, lễ nghi ra chỉ dạy và dạy cả những việc như cày cấy, kéo sợi dệt vải... để người dân quê mình biết cách mưu sinh. Ít lâu sau, một con chim hạc từ trên mây cao bay xuống, rước bà và hai con về cõi tiên. Nhớ ơn đức, nhân dân địa phương cùng nhau xây tháp, tạc tượng phụng thờ.
Điện Hòn Chén.
Khi đến Đại An, không tin Thiên Y A Na và hai con đã rời bỏ cõi tục, bộ hạ của thái tử đã tra khảo người dân rất dữ, vì ngỡ họ cố tình che giấu mẹ con bà. Bị oan ức và đau đớn, nhiều người dân đã thắp hương cúng vái bà. Liền đó, một trận cuồng phong nổi dậy, cát chạy đá bay... và toàn bộ những người đến từ phương bắc đều bị cát vùi thây, thuyền bè của họ cũng bị đá đánh chìm hết…
Theo lời người xưa truyền lại, thì những cụm đá ở trước cửa tháp Bà (tức tháp Po Nagar ở Nha Trang), giữa cửa sông Cù, là những viên đá đã đánh đắm cả đoàn thuyền vừa kể. Sự tích này đã được Kinh lược Phan Thanh Giản chép lại thành bài ký, khắc lên bia đá, dựng sau tháp Bà ở Nha Trang vào năm Tự Đức thứ 9 (1856).
Ngoài ra, vào năm 1925, bác sĩ Sallet chép lời người dân địa phương kể lại, thêm thắt vài chi tiết, để có một sự tích nữa, tóm gọn như sau: Một thái tử Trung Hoa qua Việt Nam tìm vợ, gặp khúc trầm to, muốn đưa lên thuyền, nên cho lính chặt ra làm ba khúc. Tức thì, giông bão nổi lên làm đắm thuyền. Khúc trầm trôi ngược vào sông, tấp vào khu vườn ở làng Bình Thủy (Phan Rí). Do được báo mộng, chủ vườn thức dậy, thì thấy khúc trầm to có ghi chữ Thiên Y (Thiên Y A Na) và hai khúc trầm nhỏ (hai đứa con), và ông đã đem lên cất miếu thờ. Lâu ngày, gỗ trầm hóa đá.
Nông dân bỗng thành "ông hoàng bà thánh"…
Thuyền hoa cũng nói lên được nhiều điều. Giàu thì thuyền lớn, trang hoàng lộng lẫy, kèn trống chát tai, nghèo thì đơn giản hơn một chút, thậm chí thuyền không có một bông hoa, tiếng kèn nào cũng có thể tham gia hội. Nhưng hình như không có ai vì thế mà buồn, bởi “đi lễ hội, đến với Mẹ đôi khi chỉ cần tấm lòng thành là đủ” - chị Liên, một trong những chủ thuyền tâm sự.
Đứng dưới chân núi Ngọc Trản, tục truyền rằng nơi đây một năm hai lần đức Thánh mẫu Thiên Y A Na giáng trần để ban phước lành cho chúng sinh đó là cứ vào dịp Xuân tế (tháng ba), Thu tế (tháng bảy). Vào những ngày này hàng chục thuyền nhỏ, thuyền to san sát tấp nập như phiên chợ nổi Cái Răng. Người ngườì nô nức kéo nhau đi trẩy hội. Với một mong muốn là cầu cho gia đình được ấm no, hạnh phúc và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.
Chị Nguyễn Thị Hoa, 47 tuổi, tiểu thương bán cá ở chợ Hội An, Quảng Nam, giới thiệu với tôi chị là “con” của đức mẹ Thiên Y A Na. Chị cùng với 20 người khác cơm đùm gạo bọc ra Huế trước đó một hôm để chuẩn bị mọi việc. Chị nói: “Dù đi như thế này tốn bạc triệu, nhưng gần 10 năm nay, năm mô tui cũng một năm hai lần ra hầu mẹ để mẹ ban phúc, tạo phước”.
Chị Dương Thị Quế, 32 tuổi, đến từ Quảng Bình lại khác, chị xưng là... lính thánh, tức những người được quyền hầu đồng (lên đồng). Chị kể: “Để làm được lính thánh thì phải có người giới thiệu với chủ am, rồi dâng lễ vật. Tốn kém lắm, nhưng lại vui, và quan trọng nhất là gia đình được bình yên, mình luôn thanh thản”.
Điều buồn cười là phần đông ông đồng bà cốt và con nhang đệ tử chẳng mấy ai rành rẽ sự tích Mẫu, dẫu họ tự nhận là tín đồ thuần thành của Thiên Tiên Thánh giáo. Khác nhiều người nghĩ, với tên gọi này, Thiên chẳng phải trời, Tiên chẳng phải nhân vật yên vui và có nhiều phép mầu.
Chuyên luận Tín ngưỡng dân gian Huế của Trần Đại Vinh (NXB Thuận Hoá, Huế, 1995) ghi nhận: "Cách đặt tên Thiên Tiên Thánh giáo được giải thích là: Thiên là huyện Thiên Bản, Tiên là làng Tiên Hương, tức thôn Vân Cát, làng An Thái, là nơi giáng trần lần thứ hai của Liễu Hạnh công chúa. Hai chữ Thánh giáo thể hiện một nguyện vọng của tổng hội xin thừa nhận tín ngưỡng này như một tôn giáo thiêng liêng.”
Lễ hội điện Huệ Nam thường kéo dài đến 3 ngày với rất nhiều nghi lễ phức tạp. Tôi chỉ nói đến phần hầu đồng, bởi để hướng tới những điều tốt lành trong cuộc sống, người Chăm xưa và sau đó là người Việt đã coi những buổi hầu đồng, rước bóng như là sự tìm về với cội nguồn của tâm linh, sự thăng hoa của tôn giáo phồn thực để tìm sự an ủi, vỗ về ở một thế giới khác. Có đến đây mới thấy sức mạnh, niềm tin của con người vào thế giới thần linh thật lớn lao.
Những “lính thánh” ở điện Hòn Chén thuộc mọi đối tượng và mọi tầng lớp trong xã hội: Từ phụ nữ đến đàn ông, từ trẻ nhỏ đến người già, từ những người buôn bán đến những người nông dân cực khổ, thậm chí là cả tầng lớp trí thức. Họ đến đây với nhiều tâm trạng khác nhau, có người thì muốn cầu cho được bình an, sức khoẻ; có người mong được giàu có, sung túc; người mong được thuận hòa mọi bề, con cái thành đạt.
Người lên đồng, dù nam hay nữ, đều phục trang cực kỳ đặc biệt. Áo mớ ba mớ bảy nhiều màu, thắt lưng kim tuyến, quần thắt chẽn ống, giày vải hoặc hài nhung, tóc chít khăn xếp xanh đỏ, vai khoác lụa là, tai, tay, cổ và cả cườm chân đều đeo vàng bạc, ngọc ngà lấp lánh, mặt nhồi phấn, môi tô son, mắt kẻ chì. Có trường hợp phải bôi mặt đen sì, vai quàng dây leo, eo đóng khố, tay cầm khèn hoặc quấn luôn con... rắn (làm giả bằng rễ cây) nếu nhập vai ông Bảy hay ông Chín Thượng Ngàn. Lại có lúc họ còn đội lốt cọp để làm Hạ Ban, tức thần hổ.
Một vũ điệu khá phổ biến trong hầu giá là múa mồi: dùng tay kẹp ống giấy tròn nhỏ đã tẩm sẵn paraffin/paraffine/thạch chá, đốt cháy phừng phừng, mà uốn éo. Trò múa lửa này trông khá ngoạn mục, nhất là về đêm, tuy nhiên chính nó là nguyên nhân gây ra không ít vụ hoả hoạn làm thiêu rụi miếu đền, nhà cửa!
Hơn bao giờ hết, đây cũng là cơ hội để họ được giải tỏa mọi ẩn ức trong cuộc sống, là nơi để họ được thể hiện bản thân mình. Trong trang phục ngũ sắc, tượng trưng cho kim, mộc, thủy, hỏa, thổ một nông dân quanh năm chân lấm tay bùn như chị Quế ở Quảng Bình bỗng chốc hóa thân thành một bà tiên, ông hoàng đầy uy nghi, phi phàm. Đấy cũng là cách để con người tiếp cận với thần thánh, giúp họ làm những việc, thực hiện những ước mơ, khao khát đã bị đánh cắp trong cuộc sống đời thường.
Hà Kiều - Như Thuỷ (Dòng Đời)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét