(Kiến Thức) - Bùi Viện, một viên quan triều Nguyễn dưới thời Tự Đức đã được lịch sử ghi nhận cùng những minh chứng là sứ giả Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ...
Bùi Viện, một viên quan triều Nguyễn dưới thời Tự Đức dù đã được lịch sử ghi nhận cùng những minh chứng là sứ giả Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ đặt mối bang giao, nhưng những ghi chép về vị quan này quá sơ sài, ít ỏi. Rất nhiều người dù am tường sử học cũng không rõ gốc tích lẫn những việc làm của Bùi Viện.
Vậy để rõ hơn về thân thế, sự nghiệp và những việc làm của vị quan này, tòa soạn xin gửi tới quý độc giả những tìm hiểu tỉ mỉ nhất, cũng là mong góp cho ngành sử học nước nhà đôi dòng tư liệu.
Bùi Viện là ai?
Tuy lịch sử có ghi nhận vị quan tên là Bùi Viện là sứ giả đầu tiên vượt biển trùng khơi sang Hoa Kỳ đặt mối bang giao, cùng với đó là cái chết của vị công thần nhà Nguyễn, nhưng những ghi chép ấy quá mỏng manh, đôi chỗ còn chưa có căn cứ chính xác nên vào cuối tháng 7, chúng tôi đã về xã An Ninh (Tiền Hải, Thái Bình) để tìm hiểu kỹ hơn về vị sứ giả nước Nam này.
Ông Bùi Luật, người giữ việc nhang khói ở từ đường họ Bùi, cũng là khu lưu niệm của quan Bùi Viện đang nắm giữ khá nhiều tư liệu cổ. Đáng chú ý, trong số những tư liệu ông giữ, có đầy đủ những bản chép cũ lẫn mới tương đối chính xác và có căn cứ cụ thể.
Ông Luật cho biết, Bùi Viện sinh năm 1839, hiệu là Mạnh Dực. Trước đây, xã An Ninh có tên gọi khác là làng Trình Phố, tổng An Bồi, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định. Bây giờ, cái tên Trình Phố được đổi sang là Trình Trung Tây.
Tuy Bùi Viện sinh ra tại thôn này nhưng gốc gác của ông là ở làng Diêm Phố (Hậu Lộc, Thanh Hóa). Khi dòng họ Bùi đến tổng An Bồi lập nghiệp mới lấy tên làng là Trình bởi vùng đất này có nhiều sông ngòi, gắn liền với dòng Trình Giang. Từ tên làng đó ghép với tên làng cũ để nhắc nhở con cháu không quên gốc gác.
Cử nhân ân khoa
Bùi Viện đỗ tú tài năm Giáp Tý, tức 1864. Bốn năm sau, tức năm 1868 thì đỗ cử nhân ân khoa. Ngay sau đó, Bùi Viện vào kinh thành Huế tập văn tại Quốc Tử Giám và ở nhà của người bạn rất thân với thân phụ là vị Tế tửu Vũ Duy Thanh, tức Trạng Bồng.
Năm 1871, Bùi Viện nhận nhiệm vụ phò Lê Tuấn lúc đó đương chức Hình bộ Thượng thư ra Bắc dẹp loạn quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh. Công việc hoàn thành, ông trở về Huế và sau đó được Doãn Khuê đương chức Doanh điền sứ Nam Định mời ra giúp việc khai hoang, lấn biển.
Năm 1873, lục tỉnh Nam kỳ lọt vào tay thực dân Pháp và đang âm mưu ép triều đình ký một hiệp định thay thế Hòa ước Nhâm Tuất (1862). Lúc này, Tự Đức nhận thấy việc cấp bách, lại thấy Bùi Viện tài năng lỗi lạc, bản lĩnh hơn người nên cử ông sang nước ngoài xem xét tình hình, mưu việc cứu quốc.
Trong tài liệu lưu giữ tại từ đường họ Bùi ở Thái Bình có ghi: Vua Tự Đức đã dành cho Bùi Viện một buổi lễ bái biệt trọng thể tại Thúy Vân Sơn cùng lời căn dặn kỹ càng trước khi Bùi Viện căng buồm vượt biển.
Bùi Viện rời cửa biển Thuận An (Huế), để ngược ra Bắc tháng 8/1873 và hai tháng sau thì cập đến bến Hương Cảng. Lúc đó, Hương Cảng đang là nhượng địa của nước Anh cho nên tại đây, Bùi Viện có điều kiện kết giao với nhiều nhân sĩ trí thức của các nước.
Sau một thời gian tiếp xúc với các quan chức, Bùi Viện nhận ra không thể nhờ vả vào Lý Hồng Chương – một đại thần nhà Thanh nên ông chuyển hướng sang những chính khách Tây phương.
Bùi Viện sau nhiều lần bút đàm với viên lãnh sự Hoa Kỳ thì mới nhận thấy ngoài Anh, Pháp thì Hoa Kỳ cũng là quốc gia hùng cường có thể cậy trông. Biết được nguyện vọng của Bùi Viện, viên lãnh sự này đã viết một lá thư giới thiệu với một người bạn đầy uy thế ở Hoa Kỳ có khả năng giúp ông tiếp cận với Tổng thống Hoa Kỳ.
Hai lần sang Hoa Kỳ
Từ Trung Quốc, Bùi Viện đến Yokohama (Nhật Bản) để xem xét tình hình. Sau thời gian ngắn, Bùi Viện nhận thấy đất nước này mới chỉ mở cửa chưa đủ mạnh để giúp Việt Nam nên ông đã đáp tàu sang San Francisco (Hoa Kỳ) rồi lưu lại đó suốt một năm để vận động gặp Tổng thống Hoa Kỳ thứ 18 là Ulysses Simpson Grant.
Thời gian này, Pháp và Hoa Kỳ đang xích mích với nhau trong chiến tranh Hoa Kỳ - Mexico nên Hoa Kỳ cũng tỏ ý sẽ giúp nước Nam. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là Bùi Viện không mang theo quốc thư nên 2 bên không thể có một cam kết chính thức.
Sau đó, khi về đến Huế tâu bẩm tình hình của Hoa Kỳ và những việc mắt thấy tai nghe, vua Tự Đức đã trao Bùi Viện quốc thư cho đầy đủ lề lối ngoại giao chính thức. Một lần nữa Bùi Viện lại xuất dương, nhưng người tính không bằng trời tính, khi sứ thần Việt Nam có quốc thư thì sự thù địch giữa Hoa Kỳ và Pháp đã được dàn xếp ổn thỏa nên Hoa Kỳ không thể trực tiếp giúp đỡ Việt Nam được.
Quá thất vọng, Bùi Viện đáp tàu lộn ngược đường cũ trở về nước. Vừa đặt chân lên bờ thì Bùi Viện nghe tin mẹ từ trần nên lập tức xin vua về quê cư tang. Trước đó, Bùi Viện đã nén đau thương vào triều tâu bẩm cặn kẽ tình hình với vua Tự Đức rồi xin về thọ tang mẹ.
Ba tháng sau, Bùi Viện lại được triệu về kinh đô giữ chức Thương chánh Tham biện rồi sau đó là chức Chánh quản đốc nha Tuần hải. Chẳng lâu sau, ông qua đời đột ngột ở tuổi 40.
Cái chết của Bùi Viện cho đến nay còn là một bí ẩn. Lịch sử cũng chỉ viết, Bùi Viện qua đời đột ngột, trong khi đó ông mới ở tuổi 40, không bệnh tật, không ốm đau. Nhưng qua những hồ sơ ghi chép mà ông Bùi Luật đang cất giữ tại từ đường họ Bùi ở thôn Trình Trung Tây, cái chết của Bùi Viện mới dần dần sáng tỏ.
Nhưng tất thảy, sau những công trạng của Bùi Viện, người đương thời biết đến ông không chỉ với vai trò là sứ giả ngoại giao. Bùi Viện còn nổi lên với vai trò “Tổng công trình sư” của cảng Hải Phòng.
Tại sao ông không chọn cửa Ba Lạt hay Trà Lý quê mình để mở mang cảng biển, lại chọn vùng đất Hải Phòng để mưu cầu việc lớn cho quốc gia? Bài sau chúng tôi sẽ hạ hồi phân giải để quý độc giả có thêm cái nhìn mới về danh nhân Bùi Viện.
Bùi Viện, một viên quan triều Nguyễn dưới thời Tự Đức dù đã được lịch sử ghi nhận cùng những minh chứng là sứ giả Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ đặt mối bang giao, nhưng những ghi chép về vị quan này quá sơ sài, ít ỏi. Rất nhiều người dù am tường sử học cũng không rõ gốc tích lẫn những việc làm của Bùi Viện.
Vậy để rõ hơn về thân thế, sự nghiệp và những việc làm của vị quan này, tòa soạn xin gửi tới quý độc giả những tìm hiểu tỉ mỉ nhất, cũng là mong góp cho ngành sử học nước nhà đôi dòng tư liệu.
Bùi Viện là ai?
Tuy lịch sử có ghi nhận vị quan tên là Bùi Viện là sứ giả đầu tiên vượt biển trùng khơi sang Hoa Kỳ đặt mối bang giao, cùng với đó là cái chết của vị công thần nhà Nguyễn, nhưng những ghi chép ấy quá mỏng manh, đôi chỗ còn chưa có căn cứ chính xác nên vào cuối tháng 7, chúng tôi đã về xã An Ninh (Tiền Hải, Thái Bình) để tìm hiểu kỹ hơn về vị sứ giả nước Nam này.
Ông Bùi Luật, người giữ việc nhang khói ở từ đường họ Bùi, cũng là khu lưu niệm của quan Bùi Viện đang nắm giữ khá nhiều tư liệu cổ. Đáng chú ý, trong số những tư liệu ông giữ, có đầy đủ những bản chép cũ lẫn mới tương đối chính xác và có căn cứ cụ thể.
Ông Luật cho biết, Bùi Viện sinh năm 1839, hiệu là Mạnh Dực. Trước đây, xã An Ninh có tên gọi khác là làng Trình Phố, tổng An Bồi, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định. Bây giờ, cái tên Trình Phố được đổi sang là Trình Trung Tây.
Tuy Bùi Viện sinh ra tại thôn này nhưng gốc gác của ông là ở làng Diêm Phố (Hậu Lộc, Thanh Hóa). Khi dòng họ Bùi đến tổng An Bồi lập nghiệp mới lấy tên làng là Trình bởi vùng đất này có nhiều sông ngòi, gắn liền với dòng Trình Giang. Từ tên làng đó ghép với tên làng cũ để nhắc nhở con cháu không quên gốc gác.
Cử nhân ân khoa
Bùi Viện đỗ tú tài năm Giáp Tý, tức 1864. Bốn năm sau, tức năm 1868 thì đỗ cử nhân ân khoa. Ngay sau đó, Bùi Viện vào kinh thành Huế tập văn tại Quốc Tử Giám và ở nhà của người bạn rất thân với thân phụ là vị Tế tửu Vũ Duy Thanh, tức Trạng Bồng.
Năm 1871, Bùi Viện nhận nhiệm vụ phò Lê Tuấn lúc đó đương chức Hình bộ Thượng thư ra Bắc dẹp loạn quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh. Công việc hoàn thành, ông trở về Huế và sau đó được Doãn Khuê đương chức Doanh điền sứ Nam Định mời ra giúp việc khai hoang, lấn biển.
Năm 1873, lục tỉnh Nam kỳ lọt vào tay thực dân Pháp và đang âm mưu ép triều đình ký một hiệp định thay thế Hòa ước Nhâm Tuất (1862). Lúc này, Tự Đức nhận thấy việc cấp bách, lại thấy Bùi Viện tài năng lỗi lạc, bản lĩnh hơn người nên cử ông sang nước ngoài xem xét tình hình, mưu việc cứu quốc.
Trong tài liệu lưu giữ tại từ đường họ Bùi ở Thái Bình có ghi: Vua Tự Đức đã dành cho Bùi Viện một buổi lễ bái biệt trọng thể tại Thúy Vân Sơn cùng lời căn dặn kỹ càng trước khi Bùi Viện căng buồm vượt biển.
Bùi Viện rời cửa biển Thuận An (Huế), để ngược ra Bắc tháng 8/1873 và hai tháng sau thì cập đến bến Hương Cảng. Lúc đó, Hương Cảng đang là nhượng địa của nước Anh cho nên tại đây, Bùi Viện có điều kiện kết giao với nhiều nhân sĩ trí thức của các nước.
Sau một thời gian tiếp xúc với các quan chức, Bùi Viện nhận ra không thể nhờ vả vào Lý Hồng Chương – một đại thần nhà Thanh nên ông chuyển hướng sang những chính khách Tây phương.
Bùi Viện sau nhiều lần bút đàm với viên lãnh sự Hoa Kỳ thì mới nhận thấy ngoài Anh, Pháp thì Hoa Kỳ cũng là quốc gia hùng cường có thể cậy trông. Biết được nguyện vọng của Bùi Viện, viên lãnh sự này đã viết một lá thư giới thiệu với một người bạn đầy uy thế ở Hoa Kỳ có khả năng giúp ông tiếp cận với Tổng thống Hoa Kỳ.
Hai lần sang Hoa Kỳ
Từ Trung Quốc, Bùi Viện đến Yokohama (Nhật Bản) để xem xét tình hình. Sau thời gian ngắn, Bùi Viện nhận thấy đất nước này mới chỉ mở cửa chưa đủ mạnh để giúp Việt Nam nên ông đã đáp tàu sang San Francisco (Hoa Kỳ) rồi lưu lại đó suốt một năm để vận động gặp Tổng thống Hoa Kỳ thứ 18 là Ulysses Simpson Grant.
Thời gian này, Pháp và Hoa Kỳ đang xích mích với nhau trong chiến tranh Hoa Kỳ - Mexico nên Hoa Kỳ cũng tỏ ý sẽ giúp nước Nam. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là Bùi Viện không mang theo quốc thư nên 2 bên không thể có một cam kết chính thức.
Sau đó, khi về đến Huế tâu bẩm tình hình của Hoa Kỳ và những việc mắt thấy tai nghe, vua Tự Đức đã trao Bùi Viện quốc thư cho đầy đủ lề lối ngoại giao chính thức. Một lần nữa Bùi Viện lại xuất dương, nhưng người tính không bằng trời tính, khi sứ thần Việt Nam có quốc thư thì sự thù địch giữa Hoa Kỳ và Pháp đã được dàn xếp ổn thỏa nên Hoa Kỳ không thể trực tiếp giúp đỡ Việt Nam được.
Quá thất vọng, Bùi Viện đáp tàu lộn ngược đường cũ trở về nước. Vừa đặt chân lên bờ thì Bùi Viện nghe tin mẹ từ trần nên lập tức xin vua về quê cư tang. Trước đó, Bùi Viện đã nén đau thương vào triều tâu bẩm cặn kẽ tình hình với vua Tự Đức rồi xin về thọ tang mẹ.
Ba tháng sau, Bùi Viện lại được triệu về kinh đô giữ chức Thương chánh Tham biện rồi sau đó là chức Chánh quản đốc nha Tuần hải. Chẳng lâu sau, ông qua đời đột ngột ở tuổi 40.
Cái chết của Bùi Viện cho đến nay còn là một bí ẩn. Lịch sử cũng chỉ viết, Bùi Viện qua đời đột ngột, trong khi đó ông mới ở tuổi 40, không bệnh tật, không ốm đau. Nhưng qua những hồ sơ ghi chép mà ông Bùi Luật đang cất giữ tại từ đường họ Bùi ở thôn Trình Trung Tây, cái chết của Bùi Viện mới dần dần sáng tỏ.
Nhưng tất thảy, sau những công trạng của Bùi Viện, người đương thời biết đến ông không chỉ với vai trò là sứ giả ngoại giao. Bùi Viện còn nổi lên với vai trò “Tổng công trình sư” của cảng Hải Phòng.
Tại sao ông không chọn cửa Ba Lạt hay Trà Lý quê mình để mở mang cảng biển, lại chọn vùng đất Hải Phòng để mưu cầu việc lớn cho quốc gia? Bài sau chúng tôi sẽ hạ hồi phân giải để quý độc giả có thêm cái nhìn mới về danh nhân Bùi Viện.
Đương thời, Tam nguyên Yên đổ Nguyễn Khuyến viết đôi câu đối đánh giá về Bùi Viện: “Vi sở bất năng vi, đàm tiếu không lưu hoành hải khí/Cố bất thất vi cố, cầm thư khước ức thiếu niên du” – Tạm dịch: Làm việc chẳng ai làm, dọc đất ngang trời trơ chí lớn/Cũ người là bạn cũ, ôm đàn mở sách nhớ tình xưa.
“Bùi Viện là một vị quan trí dũng song toàn. Dù 32 tuổi mới lần đầu được triều đình trọng dụng, lại dưới trướng của một quan đại thần nhưng ông vẫn nhất mực vì nước. Hai lần lênh đênh trên biển sang Hoa Kỳ mong có một bang giao cứu quốc đã chứng minh cho điều ấy”.
GS sử học Lê Văn Lan
Sáng tỏ cái chết của người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ
(Kiến Thức) - Lịch sử ghi chép, Bùi Viện - người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ qua đời đột ngột ở tuổi 40. Trong khi đó, ông là người không bệnh tật, không ốm đau.
Đương thời, Tam nguyên Yên đổ Nguyễn Khuyến viết đôi câu đối đánh giá về Bùi Viện: “Vi sở bất năng vi, đàm tiếu không lưu hoành hải khí/Cố bất thất vi cố, cầm thư khước ức thiếu niên du” – Tạm dịch: Làm việc chẳng ai làm, dọc đất ngang trời trơ chí lớn/Cũ người là bạn cũ, ôm đàn mở sách nhớ tình xưa.
“Bùi Viện là một vị quan trí dũng song toàn. Dù 32 tuổi mới lần đầu được triều đình trọng dụng, lại dưới trướng của một quan đại thần nhưng ông vẫn nhất mực vì nước. Hai lần lênh đênh trên biển sang Hoa Kỳ mong có một bang giao cứu quốc đã chứng minh cho điều ấy”.
GS sử học Lê Văn Lan
Sáng tỏ cái chết của người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ
(Kiến Thức) - Lịch sử ghi chép, Bùi Viện - người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ qua đời đột ngột ở tuổi 40. Trong khi đó, ông là người không bệnh tật, không ốm đau.
Lịch sử ghi chép, Bùi Viện qua đời đột ngột ở tuổi 40. Trong khi đó, ông là người cường tráng không bệnh tật, không ốm đau. 137 năm sau cái chết của một đại thần, cho đến nay, cái chết ấy mới dần sáng tỏ.
Khi tìm hiểu về vị quan thanh liêm nhất mực của triều đình nhà Nguyễn như Bùi Viện, có thể nhiều nhà sử học chỉ quan tâm đến thân thế, sự nghiệp sang Hoa Kỳ kết mối bang giao đồng minh hòa hiếu và đánh giá Bùi Viện ở một góc nhìn khác khi văn thần làm võ tướng.
Cùng với đó là tầm nhìn khi xây dựng cảng Hải Phòng, lập đội Tuần dương quân, thu phục hải tặc Trung Hoa. Thế nên, cái chết của ông suốt hơn trăm năm chìm vào bí ẩn. Nhiều người cho rằng, có thể Bùi Viện chết vì một căn bệnh hiểm nghèo.
Tuy nhiên, qua những ghi chép và những lời dặn dò của người trong họ Bùi truyền từ đời này qua đời khác mà ông Bùi Luật đang cất giữ tại từ đường họ Bùi ở thôn Trình Trung Tây thì cái chết của người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ mới dần dần sáng tỏ.
Bị đầu độc
Sau hai lần đi Hoa Kỳ cầu viện bất thành, trở về nước được vua Tự Đức tin dùng, Bùi Viện đã tổ chức thành công Tuần dương quân khiến cho uy tín ngày một cao. Những thành quả của Bùi Viện chẳng những đè bẹp những cuộc vận động phản đối của phái bảo thủ mà còn làm tăng uy danh triều đình Huế trước thế lực thân thực dân Pháp.
Qua một số tài liệu mà ông Bùi Luật cung cấp, những người bạn đồng liêu và nhân dân đương thời đã ưu ái dành cho ông những lời ngợi khen: Chức vụ đương kim suy tuấn kiệt/Thành công tự cổ xuất thư sinh. Câu đối ấy của Biện lý La Ngạn mà tạm dịch là: Biết việc phải chăng trang tuấn kiệt/Thành công xưa vẫn bậc thư sinh.
Hoặc như Ngự sử Đỗ Duy Diễn cũng viết: “Nhất kinh bạch nghiệp thiên tương đại/Vạn lý trường phong lục hải bình”, tức: Hai tay ngang dọc xoay trời đất/Muôn dặm xông pha dẹp bể yên.
Theo ông Bùi Văn Nghệ và nhà văn Bảo Vân, hậu duệ đời thứ 12 của tộc Bùi, thì: “Hôm ấy là ngày mồng 1/11 năm Tự Đức thứ 31 (1878), ngày mà Bùi Viện vĩnh viễn ra đi, bỏ lại sau lưng một sự nghiệp vĩ đại không người thừa kế. Cả ngày hôm ấy ông vẫn mạnh khoẻ, nhưng đến chập tối, ông kêu đau nhức khắp mình mẩy và đến nửa đêm thì mất”.
Tuy nhiên, TS Bùi Tiên Khôi, là cháu đời thứ 12 của tộc Bùi, tức cháu bốn đời của Bùi Viện cho biết: “Ngày 1/11 năm Tự Đức thứ 31 tức năm 1878, Bùi Viện đi dự tiệc. Toà Khâm sứ Pháp mua chuộc kẻ hầu rượu bỏ độc dược vào thức ăn đồ uống. Khi về đến tư dinh, Bùi Viện kêu đau bụng dữ dội và chết ngay trong đêm ấy tại Huế.
Bà cao tổ, kế thất của ông Bùi Viện, được ông trăn trối hãy trốn đi ngay để tránh cái họa “nhổ cỏ tận gốc” của kẻ thù, nên đã đưa con là Bùi Tình vào lánh tại Bình Định, lập ra nhánh mới cho họ Bùi từ đấy”.
Cũng theo TS Bùi Tiên Khôi thì: “Năm 1875, Chính phủ Pháp cử Rheinart làm khâm sứ ở Huế. Rheinart đã ra sức điều tra tất cả những nhân vật yêu nước của triều đình Huế và đệ trình về Pháp với đề nghị phải loại trừ Bùi Viện”.
Rheinart viện dẫn hòa ước năm 1862, hòa ước nhượng đứt 3 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp có đoạn: “Hễ nước Việt Nam có giao thiệp với nước nào thì phải cho chính phủ Pháp biết và khi nào muốn nhường đất cho nước nào phải tùy ý nước Pháp thuận mới được. Thế mà triều đình Huế đã cử Bùi Viện qua Mỹ hai lần, năm 1873, 1875, để bí mật xin viện trợ quân sự, kinh tế chống Pháp”.
Rheinart yêu cầu triều đình Huế cách chức Bùi Viện, triều đình Huế chẳng những không nghe theo mà còn lạnh nhạt, thù hận Rheinart ra mặt. Trong không khí ngột ngạt khó thở đó, Rheinart cáo bệnh về Pháp sau một năm ở Huế và Philastre qua thay.
Philastre tiếp tục mật trình về Pháp những hoạt động phát triển của Tuần dương quân và yêu cầu ám sát Bùi Viện, một trở ngại lớn trong cuộc xâm lăng toàn cõi Việt Nam. Đề nghị của Philastre được Rheinart, người tiền nhiệm khâm sứ Pháp tại triều đình Huế đang làm việc trong Chính phủ Pháp nhiệt liệt tán thành và hỗ trợ, do đó lệnh được chuẩn y.
Ngay sau cái chết của Bùi Viện, Tuần dương quân Việt Nam tan rã, Rheinart được thăng thưởng trở qua Việt Nam ngày 14/5/1879 tái nhậm chức khâm sứ Pháp tại Huế, thay thế Philastre. Triều đình Huế mà trực tiếp là vua Tự Đức vô cùng phẫn nộ trước cái chết của đại thần Bùi Viện nên Philastre phải xin rời khỏi Huế.
Biển thủ công quỹ?
Tuy nhiên, lại có một thuyết khác nói Bùi Viện chết không phải do thực dân Pháp đầu độc mà do các nịnh thần của triều đình Huế tiến hành. Việc ấy được viện dẫn trong cuốn sử tộc Bùi như sau:
Khi ở Hoa Kỳ về, Bùi Viện tâu vua nên theo người, sửa đổi nền văn học của nước nhà cho thực tế hơn và trình bày những tiến bộ cơ khí của các nước văn minh, mà nước nhà cần cho nhân tài đi học hỏi nhiều. Nhưng lúc vua quan hội bàn thì số đông cho rằng, Bùi Viện tâng bốc người, kém đề cao những gì mình đã có. Trước sức ép của số đông, Tự Đức khước từ những đề nghị của Bùi Viện.
Đặc biệt, khi Bùi Viện được vua giao trọng trách xây cảng Hải Phòng, lập Tuần dương quân đã được quyền “tiền trảm hậu tấu”. Bởi thế, khi tiến hành việc, những tiêu pha tốn kém là không tránh khỏi.
Bùi Viện phải đề nghị kho Bắc Hà chi tiền để khỏi lỡ việc công. Khi hồi kinh, ông tấu trình sự việc và được vua khen là có tài quyền biến, biết tùy cơ lo liệu. Thế nhưng, nịnh thần đã tố cáo và cho rằng, Bùi Viện lợi dụng việc công để biển thủ công quỹ triều đình.
Vậy là sau bữa dự tiệc tại triều đình, khi về đến tư dinh thì Bùi Viện đau bụng dữ dội và có dối lại đôi lời cho người nhà rồi tắt thở.
Sau khi Bùi Viện qua đời, triều đình lập một ủy ban điều tra sản nghiệp của ông. Kết quả là: “Năm gian nhà Bùi Viện thềm vách lở thêm vì mưa nắng, cột kèo xiêu vẹo, không có chi gọi là tư sản”.
Lúc này, vua Tự Đức mới kiên quyết phê xá những việc đã qua, nghĩa là 36 vạn quan tiền do kho miền Bắc đã xuất ra được chính thức coi là để chi vào việc quân cơ.
Bùi Viện chết, các nhân viên Nha tuần hải phúng ông khi cử hành tang lễ: “Dưới trời chỉ có người kỳ tài mới làm được những việc mới lạ, những kẻ kiến thức tầm thường nếu được ở trong cửa những người đó, cũng là một việc đáng mong mỏi lắm rồi. Huống chi lại được trực tiếp can thiệp đến những việc lớn của nhà nước là ngoài chỗ mọi người có thể lo liệu được. Chúng tôi bàn riêng với nhau: Được thấy những chuyện lạ, cũng là một việc sướng trong đời!”.
Khi ông mất, Thanh Đoàn gồm hàng trăm người trước kia là cướp biển gốc Hoa kéo về tận làng Trình Phố, Thái Bình quê của Bùi Viện để khóc và cúng tế ông với bức trướng “Thiên tải nhất ngộ” (Ngàn đời mới gặp một người). Sau đó họ giải tán để lại theo đường cũ không chịu phục tùng người nào khác ngoài Bùi Viện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét