Thứ Hai, 25 tháng 3, 2019

Trước cảnh lầm than của quê hương, Nguyễn Ái Quốc bôn ba nhiều nơi tìm đường cứu nước




B.T sưu tầm, SGK Sử 9 



Trước cảnh lầm than của quê hương, Nguyễn Ái Quốc bôn ba nhiều nơi tìm đường cứu nước

Sau thời gian hoạt động ở Pháp và Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc trở về Trung Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và mở ra bước phát triển mới của phong trào công nhân Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917 - 1923)
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước đế quốc thắng trận họp ở Véc-xai (gần Thủ đô Pa-ri) ngày 18 - 6 - 1919 để chia lại thị trường thế giới.
Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp đã đưa tới hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam.
Những yêu sách nói trên không được chấp nhận, nhưng việc làm đó đã có tiếng vang lớn đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp.
Trước cảnh lầm than của quê hương, Nguyễn Ái Quốc bôn ba nhiều nơi tìm đường cứu nước - Ảnh 1.
Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp năm 1920
Tháng 7 - 1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin, từ đó Người hoàn toàn tin theo Lê-nin, dứt khoát đứng về Quốc tế thứ ba.
Tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (12 - 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động cách mạng của Người từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đi theo con đường cách mạng vô sản.
Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc cùng một số ngươi yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pa-ri để đòan kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân, thông qua tổ chức đó truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin đến các dân tộc thuộc địa.
Tờ báo Người cùng khổ do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm (kiêm chủ bút) đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Pháp nói riêng, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng.
Nguyễn Ái Quốc còn viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời sống công nhân (của Tổng Liên đoàn lao đông Pháp)... và cuốn sách Bản án chế độ thực dân Pháp. Mặc dù bị nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên vẫn được bí mật chuyển về Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1923 – 1924)
Trước cảnh lầm than của quê hương, Nguyễn Ái Quốc bôn ba nhiều nơi tìm đường cứu nước - Ảnh 2.
Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản ở Liên Xô năm 1924
Tháng 6 - 1923, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân và được bầu vào Ban Chấp hành. Sau đó, Người ở lại Liên Xô một thời gian, vừa làm việc, vừa nghiên cứu học tập.
Tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản (1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường, quan điểm của mình về vị trí, chiến lược của cách mạng ở các nước thuộc địa; về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa; về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa.
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về cách mạng giải phóng thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận, truyền bá vào nước ta từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, là một bước chuẩn bị quan trọng về chính trị và tư tưởng cho sự thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam trong giai đoan tiếp sau.
Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc (1924 – 1925)
Sau một thời gian ở lại Liên Xô học tập và nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng đảng kiểu mới, cuối năm 1924 Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam có mặt tại đây, cùng một số thanh niên mới từ trong nước sang để thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, trong đó tổ chức Cộng sản đoàn làm nòng cốt (6 - 1925).
Trước cảnh lầm than của quê hương, Nguyễn Ái Quốc bôn ba nhiều nơi tìm đường cứu nước - Ảnh 3.
Báo Thanh niên – tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo một số thanh niên Việt Nam trở thành những cán bộ cách mạng. Báo Thanh niên được xuất bản (1925) làm cơ quan tuyên truyền của Hội.

Tác phẩm Đường Kách mệnh, báo Thanh niên đã được bí mật chuyển về trong nước, đúng vào lúc phong trào yêu nước và dân chủ đang sổi nổi từ Nam ra Bắc trên cơ sở giai cấp công nhân đang lớn mạnh nên càng có điều kiện đi sâu vào quần chúng.Các bài giảng của Người trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu sau đó được tập hợp lại và in thành sách Đường Kách mệnh (đầu năm1927), vạch ra những phương hướng cơ bản của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Một số người được chọn đi học trường Đại học Phương Đông ở Liên Xô, một số được cử đi học quân sự ở Liên Xô hoy Trung Quốc, còn phần lớn lên đường về nước hoạt động.
Đến trước Đại hội đại biểu lần thứ nhất (5 - 1929), Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã có tổ chức cơ sở ở hầu khắp cả nước. Ngoài ra, một số đoàn thể quần chúng như Công hội, Nông hội, Hội học sinh, Hội phụ nữ... cũng được tổ chức.
Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có chủ trương "vô sản hoá" - đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng sống và lao động với công nhân để tự rèn luyện, đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tổ chức và lãnh đạo công nhân đấu tranh.



Sau Thế chiến I phong trào cách mạng lần lượt nổ ra mạnh mẽ ở Việt Nam

B.T sưu tầm, SGK Sử 9



Sau Thế chiến I phong trào cách mạng lần lượt nổ ra mạnh mẽ ở Việt Nam

Cách mạng tháng Mười Nga và phong trào cách mạng thế giới đã ảnh hưởng đến Việt Nam, thúc đẩy phong trào dân tộc, dân chủ công khai và phong trào công nhân phát triển sau chiến tranh. 




Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và phong trào cách mạng thế giới
Dưới ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông và phong trào công nhân ở các nước tư bản đế quốc phương Tây đã có sự gắn bó mật thiết trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Sau Thế chiến I phong trào cách mạng lần lượt nổ ra mạnh mẽ ở Việt Nam - Ảnh 1.
Lãnh tụ Lê-nin trong Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
Làn sóng cách mạng đã dâng cao trên toàn thế giới, lan rộng từ châu Âu sang châu Á, châu Mĩ và châu Phi. Trong hoàn cảnh lịch sử mới, những lực lượng cách mạng của giai cấp vô sản các nước tập hợp nhau lại để thành lập những tổ chức riêng đứng trên lập trường chủ nghĩa quốc tế vô sản. 
Tháng 3 - 1919, Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) được thành lập ở Mát-xcơ-va, đánh dấu một giai đoạn mới trong quá trình phát triển của phong trào cách mạng thế giới. Tiếp đó, Đảng Cộng sản Pháp ra đời năm 1920, Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921... càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam.
Phong trào dân tộc, dân chủ công khai (1919 - 1925)
Những năm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào dân tộc dân chủ ở nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ, thu hút nhiều tầng lớp nhân dân tham gia với nhiều hình thức phong phú và sôi nổi, trước hết là ở các thành thị.
Giai cấp tư sản dân tộc nhân đà làm ăn thuận lợi sau chiến tranh muốn vươn lên giành vị trí khá hơn trong nền kinh tế Việt Nam. Họ đã phát động các phong trào chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại hoá (1919), đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn và độc quyền xuất cảng lúa gạo Nam Kì của tư bản Pháp (1923).
Giai cấp tư sản dùng báo chí để bênh vực quyền lợi cho mình. Một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam Kì (đại biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long...) đã thành lập Đảng Lập hiến để tập hợp lực lượng, đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do, dân chủ để tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng nhằm gây áp lực với thực dân Pháp, nhưng lại sẵn sàng thỏa hiệp khi được chúng ban phát cho một số quyền lợi.
Sau Thế chiến I phong trào cách mạng lần lượt nổ ra mạnh mẽ ở Việt Nam - Ảnh 2.
Phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh năm 1926
Các tầng lớp tiểu tư sản trí thức (gồm sinh viên, học sinh, giáo viên, nhà văn, nhà báo, v.v...) được tập hợp trong những tổ chức chính trị như Việt Nam Nghĩa đoàn, Hội Phục Việt, Đảng Thanh niên...
Họ xuất bản những tờ báo tiến bộ: Chuông rè, An Nam trẻ, Người nhà quê; lập ra những nhà xuất bản tiến bộ: Cường học thư xã, Nam đồng thư xã. Tháng 6 - 1924, tiếng bom của Phạm Hồng Thái tại Sa Diện (Quảng Châu, Trung Quốc) đã cổ vũ, thúc đẩy phong trào tiến lên, mở màn cho thời đại đấu tranh mới của dân tộc. 
Trong phong trào yêu nước dân chủ công khai hồi đó, có hai sự kiện nổi bật là cuộc đấu tranh đòi nhà cầm quyền Pháp thả Phan Bội Châu (1925) và đám tang Phan Châu Trinh (1926).
Phong trào công nhân (1919 - 1925)
Nhưng năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, tuy các cuộc đấu tranh của công nhân còn lẻ tẻ và tự phát, nhưng đã cho thấy ý thức giai cấp đang phát triển, làm cơ sở cho các tổ chức và phong trào chính trị cao hơn về sau.
Sau Thế chiến I phong trào cách mạng lần lượt nổ ra mạnh mẽ ở Việt Nam - Ảnh 3.
Chủ tịch Tôn Đức Thắng (thứ ba từ phải sang) đến thăm công nhân nhà máy Ba Son năm 1975

Mở đầu là cuộc đấu tranh của công nhân viên chức các sở công thương của tư bản Pháp ở Bắc Kì vào năm 1922 đòi được nghỉ làm việc ngày chủ nhật có trả lương. Năm 1924, nhiều cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, nhà máy rượu. nhà máy xay xát gao đã diễn ra ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương... Ngay từ năm 1920, công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn đã thành lập Công hội (bí mật) do Tôn Đức Thắng đứng đầu. Tin tức về các cuộc đấu tranh của công nhân và thuỷ thủ Pháp cũng như của công nhân và thuỷ thủ Trung Quốc tại các cảng lớn: Hương Cảng, Áo Môn, Thượng Hải (1921) truyền về đã góp phần cổ vũ, động viên công nhân Việt Nam đấu tranh.
Quan trọng hơn là cuộc bãi công của thợ máy xưởng Ba Son (sửa chữa và đóng tàu cho hải quân Pháp) ở cảng Sài Gòn với mục đích ngăn cản tàu chiến Pháp chở lính sang tham gia đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân và thuỷ thủ Trung Quốc (8 - 1925).
Cuộc bãi công của thợ máy Ba Son thắng lợi, đã đánh dấu một bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam - giai cấp công nhân nước ta từ đây bước đầu đi vào đấu tranh có tổ chức và có mục đích chính trị rõ ràng.


Phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, 3 tổ chức cộng sản nối tiếp ra đời

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 


Phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, 3 tổ chức cộng sản nối tiếp ra đời

Từ cuối năm 1928 đến đầu năm 1929, phong trào dân tộc và dân chủ ở nước nước ta, đặc biệt là phong trào công nông theo con đường cách mạng vô sản, đã phát triển mạnh mẽ.

Trong hai năm 1926-1927, liên tiếp bùng nổ nhiều cuộc bãi công của công nhân, viên chức, học sinh học nghề. Lớn nhất là các cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định, công nhân hai đồn điền cao su Cam Tiêm (nay thuộc tỉnh Đồng Nai), Phú Riềng (nay thuộc tỉnh Bình Phước) và công nhân đồn điền cà phê Ray-na (Thái Nguyên).
Trên đà đó, phong trào công nhân đã mang tính thống nhất trong toàn quốc. Nhiều cuộc đấu tranh nổ ra từ Bắc chí Nam, lớn nhất là bãi công ở các nhà máy xi măng, nhà máy sợi Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thủy, nhà máy xe lử Trường Thi (Vinh), nhà máy sửa chữa ô tô Avia Hà Nội, nhà máy Ba Son (Sài Gòn), mỏ than Hòn Gai và đồn điền cao su Phú Riềng.
Các cuộc đấu tranh đó đều mang tính chất chính trị, vượt ra ngoài phạm vi một xưởng, bước đầu liên kết được với nhiều ngành, nhiều địa phương Tình hình đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên rõ rệt, tuy chưa được đều khắp.
Cùng với phong trào công nhân thì phong trào nông dân, phong trào tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân yêu nước khác cũng phát triểu, kết thành một làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ khắc cả nước, trong đó giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập.
Trong bối cảnh đó, các tổ chức cách mạng nối tiếp nhau ra đời.
Tân Việt Cách mạng Đảng (7-1928)
Trong phong trào yêu nước dân chủ mạnh mẽ đầu những năm 20 của thế kỉ XX, một số sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương và nhóm tù chính trị cũ ở Trung Kì đã thành lập Hội Phục Việt . Bị lộ sau khi rải truyền đơn dòi nhà cầm quyền Pháp thả nhà yêu nước Phan Bội Châu (11-1925), Hội Phục Việt đã đổi tên nhiều lần và cuối cùng lấy tên là Tân Việt Cách mạng Đảng (7-1928).
Đảng Tân Việt tập hợp những trí thức trẻ và thanh niên tiểu tư sản yêu nước, hoạt động chủ yếu ở Trung Kì. Ra đời và hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát triển mạng mẽ, lí luận và tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin có ảnh hưởng lớn, cuốn hút nhiều đảng viên trẻ, tiên tiến đi theo, nội bộ Tân Việt đã diễn ra một cuộc đấu trnah giữa hai xu hướng tư tưởng: vô sản và tư sản.
Cuối cùng, xu hướng cách mạng theo quan điểm vô sản chiếm ưu thế. Một số đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã chuyển sang Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tích cực chuẩn bị tiến tới thành lập một chính đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác –Lênin.
Việt Nam Quốc Dân Đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930)
Không bao lâu sau khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Tân Việt Cách mạng đảng ra đời thì Việt Nam Quốc dân đảng cũng được thành lập (25-12-1927).
Cơ sở hạt nhân đầu tiên của đảng là Nam đồng thư xã – một nhà xuất bản tiến bộ, tập hợp một nhóm thanh niên yêu nước chưa có đường lối chính trị rõ rệt.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào dân tộc dân chủ, cộng với ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng mới từ bên ngoài dội vào, đặc biệt là ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc với "chủ nghĩa Tâm dân" của Tôn Trung Sơn (một trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản thịnh hành ở Trung Quốc bấy giờ), đã dẫn tới sự ra đời của Việt Nam Quốc dân Đảng.
Phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, 3 tổ chức cộng sản nối tiếp ra đời - Ảnh 1.
Lược đồ cuộc khởi nghĩa Yên Bái (Ảnh: sachgiai.com)
Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài và Phó Đức Chính sáng lập, là một đảng chính trị theo xu hướng cách mạng dân chủ tư sản, tiêu biểu cho bộ phận tư sản dân tộc Việt Nam.
Địa bàn hoạt động chính của đảng này là Bắc Kì. Mục tiêu của đảng là nhằm đánh đuổi giặc Pháp, thiết lập dân quyền. Đảng viên của đảng gồm sinh viên, học sinh, công chức, tư sản lớp dưới, người làm nghề tự do và cả một số nông dân khá giả, thân hào, địa chủ ở nông thôn, binh lính, hạ sĩ quan người Việt trong quân đội Pháp.
Ngày 9-2-1929, ở Hà Nội xảy ra vụ giết Ba-danh, trùm mộ phu cho các đồn điền cao su. Thực dân Pháp liền tổ chức nhiều cuộc vây ráp lớn. Số đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng bị bắt có tới gần 1000 người, nhiều cơ sở ở các nơi bị phá vỡ, hầu hết cán bộ từ trung ương đến địa phương đều sa lưới giặc.
Bị động trước tình thế, mặc dù hệ thống tổ chức của đảng chưa kịp xây dựng và củng cố lại, các nhân vật chủ yếu còn lại của đảng đã quyết định hành động.
Cuộc khởi khĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng nổ ra đêm 9-2-1930 ở Yên Bái, Phú Thọ, sau đó là ở Hải Dương, Thái Bình; riêng ở Hà Nội, đã tổ chức ném bom vào Sở Mật thám, Sở Cảnh sát...
Tại Yên Bái, quân khởi nghĩa chiếm được trại lính, giết và làm bị thương một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp, nhưng không làm chủ được tỉnh lị nên hôm sau đã bị quân Pháp phản công và tiêu diệt.Ở các nơi khác , nghĩa quân cũng chỉ tạm thời làm chủ mấy huyện lị, nhưng sau đó đã nhanh chóng bị địch phản công chiếm lại. Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí khi lên máy chém đã hô to: "Việt Nam vạn tuế" (Việt Nam muôn năm).
Khởi nghĩa Yên Bái thất bại nhanh chsong vì nhiều nguyên nhân. Về khách quan. Đế quốc Pháp lúc đó còn mạnh, đủ sức đàn áp một cuộc đấu tranh vũ trang vừa đơn độc, vừa non kém như ở Yên Bái.
Về chủ quan, Việt Nam Quốc dân Đảng vừa non yếu lại không vững chắc về tổ chức và lãnh đạo. Kết quả là phong trào dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản dưới ngọn cờ Việt Nam Quốc dân Đảng đã nhanh chóng tan rã trước sự khủng bố ác liệt của quân thù.
Tuy thất bại, khởi nghĩa Yên Bái đã góp phần cổ vũ lòng yêu nước và chí căm thù của nhân dân ta đối với bè lũ cướp nước và tay sai.
Ba tổ chức cộng sản nối tiếp nhau ra đời trong năm 1929
Từ cuối năm 1928 đến đầu năm 1929, phong trào dân tộc và dân chủ ở nước nước ta, đặc biệt là phong trào công nông theo con đường cách mạng vô sản, đã phát triển mạnh mẽ. Trước tình hình đó, cần phải thành lập một đảng cộng sản để tổ chức và lãnh đạo giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cùng các lực lượng yêu nước và cách mạng khác đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập và tự do.
Cuối tháng 3-1929, một số thành viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Bắc kì (trong đó có Ngô Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh) đã họp tại số nhà 5D phố Hàm Long (Hà Nội) để lập chi bộ cộng sản đàu tiên ở Việt Nam gồm 7 người, tích cực chuẩn bị tiến hành thành lập một đảng cộng sản thay thế cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, 3 tổ chức cộng sản nối tiếp ra đời - Ảnh 2.
Nhà số 5D phố Hàm Long, Hà Nội
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (5-1929), khi kiến nghị thành lập Đảng Cộng Sản không được chấp nhận, đoàn đại biểu Bắc kì bèn bỏ Đại hội về nước rồi ra lời kêu gọi công nhân, nông dân, các tầng lớp nhân dân cách mạng nước ta ủng hộ chủ trương thành lập đảng cộng sản.

Tiếp đó, các hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Trung Quốc và ở Nam Kì cũng quyết định lập An Nam Cộng Sản Đảng.Ngày 17-6-1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp đại hội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng Sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng, ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.
Sự ra đời của Đông Dương Cộng Sản Đảng( 6-1929) và An Nam Cộng Sản Đảng (8-1929) đã tác động mạnh mẽ đến Tân Việt Cách mạng Đảng. Các đảng viên tiên tiến của Đảng Tân Việt, từ lâu đã chịu ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, cũng tách ra để thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn (9-1929). Như vậy, đến tháng 9-1929 ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản lần lượt tuyên bố thành lập.


Phong trào cách mạng lên cao, Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức ra đời năm 1930

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 


Phong trào cách mạng lên cao, Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức ra đời năm 1930

Sau hội nghị hợp nhất, ngày 24-2-1930, Đông Dương Cộng sản liên đoàn cũng gia giấp Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, cả ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã được hợp nhấ thành một đảng thống nhất: Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng xây dựng cơ sở đảng tại nhiều địa phương, trực tiếp tổ chức và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. 
Phong trào công nhân kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh của nông dân chống sưu cao thuế nặng, chống cướp ruộng đất, với phong trào bãi khóa của học sinh, bãi thị của tiểu thương...tạo thành một làn sóng đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ trên khắp cả nước.
Tuy nhiên, ba tổ chức cộng sản nói trên lại hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của nhau. Tình hình đó nếu để kéo dài sẽ có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một đảng cộng sản thống nhất trong cả nước
Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một đảng cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng cộng sản Việt nam.
Phong trào cách mạng lên cao, Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức ra đời năm 1930 - Ảnh 1.
Hình minh họa Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ ngày 6-1-1930, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp ở Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì hội nghị. Tham gia hội nghị có hai đại biểu Đông Dương Cộng sản, hai đại biểu An Nam Cộng sản đảng và hai đại biểu ngoài nước.
Hội nghị đã nhất trí tán thành việc thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Nhân dịp thành lập Đảng, Người cũng đưa ra Lời kêu gọi.
Hội nghị của đại biểu các tổ chức cộng sản để hợp nhất Đảng đầu năm 1930 có ý nghĩa như một Đại hội thành lập Đảng. Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được hội nghị thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là mọt cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênnin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam-một nước thuộc địa của thực dân Pháp, mang tính dân tộc và tính giai cấp sâu sắc.
Sau hội nghị hợp nhất, ngày 24-2-1930, Đông Dương Cộng sản liên đoàn cũng gia giấp Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, cả ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã được hợp nhấ thành một đảng thống nhất: Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Sau này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) quyết định lấy ngày 3-2-1930 là ngày kỉ niệm thành lập Đảng.
Luận cương chính trị (10-1930)
Giữa lúc cao trào cách mạng của quần chúng đang dâng lên. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng đã họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quôc) vào tháng 10-1930. Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức và cử Trần Phú làm Tổng bí thư.
Hội nghị thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú khởi thảo.
Phong trào cách mạng lên cao, Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức ra đời năm 1930 - Ảnh 2.
Tượng Tổng bí thư Trần Phú (Ảnh: baomoi.com.vn)
Căn cứ vào đặc điểm của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia lúc đó đều là thuộc địa của thực dân Pháp, mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt. Luận cương khẳng định tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, sau đó bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa mà thẳng tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện được nhiệm vụ của Đảng trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, Đảng phải coi trọng việc vận động tập hợp lực lượng đại đa số quần chúng, lãnh đạo đấu tranh đòi các quyền lợi trước mắt, đưa dần quần chúng lên trận tuyến cách mạng và đến khi tình thế cách mạng xuất hiện thì phát động quần chúng vũ trang bạo động, đánh đổ chính quyền của giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền cho công nông. Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản và các dân tộc thuộc địa, nhất là vô sản Pháp.
Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng

Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại nhất trong lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng Việt Nam, khẳng định giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 (từ tháng 10-1930 đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương), là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và gia cấp ở Việt Nam trong thời đại mới. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênnin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX.
Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng từ đây, cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự chuẩn bị đầu tiên có tính tất yếu, quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt về sau của cách mạng và lịch sử dân tộc Việt Nam.


Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh - Cuộc tập dượt cho cách mạng tháng 8 sau này

B.T sưu tầm, SGK Sử 9


Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh - Cuộc tập dượt cho cách mạng tháng 8 sau này

Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, bộ máy chính quyền thực dân và phong kiến tay sai ở nhiều huyện bị tê liệt, ở nhiều xa bị tan rã. Các tổ chức Đảng ở địa phương đã kịp thời lãnh đạo quần chúng thực hiện quyền làm chủ.

Việt Nam trong thời kì khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) từ các nước tư bản đã lan nhanh sang các nước thuộc địa và phụ thuộc của thực dân Pháp, trong đó có Việt Nam. Vốn hoàn toàn phụ thuộc vào thực dân Pháp, kinh tế Việt Nam phải chịu những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng: nông nghiệp và công nghiệp đều bị suy sụp, xuất nhập khẩu đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả đắt đỏ.
Nhân dân lao động đặc biệt là công nhân và nông dân, phải gánh chịu nhiều tác hại nhất. Công nhân không có việc làm, người thất nghiệp ngày một đông, người đi làm thì tiền lương giảm. 
Nông dân tiếp tục bị bần cùng hóa và phá sản trên quy mô lớn, ruộng đất nhanh chóng bị thâu tóm vào tay địa chủ Pháp-Việt. Các tầng lớp tiểu tư sản thành thị bị điêu đứng, các nghề thủ công bị sa sút nặng nề, nhà buôn nhỏ phải đóng cửa, viên chức bị sa thải, học sinh ra trường không có việc làm. Một số tư sản dân tộc cũng lâm vào cản gieo neo, sập tiệm, buộc phải đóng cửa hiệu
Đã thế, sưu thuế mỗi ngày một tăng, hạn hán, bão lũ liên tiếp xảy ra. Trong khi đó, thực dân Pháp lại đẩy mạnh chính sách khủng bố, thẳng tay dập tắt phong trào cách mạng vừa bùng nổ.
Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh - Cuộc tập dượt cho cách mạng tháng 8 sau này - Ảnh 1.
Nông dân Việt Nam những năm 1930
Ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế cùng chính sách đàn áp, khủng bố khốc liệt của thực dân Pháp làm cho tinh thần cách mạng của nhân dân ta ngày càng lên cao
Phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ -Tĩnh
Phong trào đấu tranh của quần chúng đã bùng lên mạnh mẽ từ năm 1929 trên cả ba miền Bắc-Trung-Nam và đến năm 1930-1931 đã phát trển tới đỉnh cao với sự ra đời của Xô viết- Nghệ Tĩnh.
Từ tháng 2-1930 đã nổ ra cuộc bãi công của 3000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng. Tiếp đó, trong tháng 4 là các cuộc bãi công của 4000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, của hơn 400 công nhân nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thủy (Vinh), nhà máy xi măng Hải Phòng, hãng dầu Nhà Bè (Sài Gòn), đồn điền cao su Dầu Tiếng ở Thủ Dầu Một (nay thuộc tỉnh Bình Dương),v..v..
Phong trào đấu tranh của nông dân đã diễn ra ở nhiều địa phương như Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh v..v.. Truyền đơn cờ đỏ búa liềm của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xuất hiện trên các đường phố Hà Nội và ở một số địa phương khác.
Phong trào đấu tranh đặc biệt mạnh mẽ từ tháng 5. Nhân ngày Quốc tế Lao động (1-5-1930), lần đầu tiên công nhân và các tầng lớp nhân dân Đông Dương tỏ rõ dấu hiệu đoàn kết với vô sản thế giới và biểu dương lực lượng của mình. 
Từ thành phố đến nông thôn trong cả nước, đã xuất hiện nhiều truyền đơn, cờ Đảng, mít tinh, bãi công, biểu tình, tuần hành v..v..Các cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ ra trong các xí nghiệp ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai, Cẩm Phả, Vinh-Bến Thủy, Sài Gòn-Chợ Lớn, v..v..
Các cuộc đấu tranh của nông dân cũng nổ ra ở nhiều địa phương thuộc các tỉnh Thái Bình, Hà Nam, Kiến An, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Bình Định và hầu như trên khắp các tỉnh Nam Kì.
Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh - Cuộc tập dượt cho cách mạng tháng 8 sau này - Ảnh 2.
Xô viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao phong trào cách mạng những năm 1930-1931
Nghệ-Tĩnh là nơi phong trào phát triển mạnh mẽ nhất. Tháng 9 -1930, phong trào công – nông đã phát triển tới đỉnh cao. Khẩu hiệu đấu tranh chính trị kết hợp với các khẩu hiệu kinh tế. Các cuộc đấu tranh diễn ra quyết liệt, quần chúng tổ chức tuần hành thị uy, biểu tình có vũ trang và tự vệ, tấn công vào cơ quan chính quyền địch ở địa phương.
Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, bộ máy chính quyền thực dân và phong kiến tay sai ở nhiều huyện bị tê liệt, ở nhiều xa bị tan rã. Các tổ chức Đảng ở địa phương đã kịp thời lãnh đạo quần chúng thực hiện quyền làm chủ. 
Các Ban Chấp hành nông hội xã do các chị bộ Đảng lãnh đạo đứng ra quản lí mọi mặt đời sống chính trị và xã hội ở nông thôn, làm nhiệm vụ của chính quyền nhân dân theo hình thức Xô viết. Lần đầu tiên nhân dân ta thật sự nắm chính quyền ở một số huyện thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Chính quyền cách mạng đã kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, bãi bỏ các thứ thuế do đế quốc và phong kiến đặt ra, đồng thời thực hiện các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, chia lại ruộng đất công cho nông dân, bắt địa chủ giảm tô, xóa nợ, khuyến khích nhân dân học chữ Quốc ngữ, bài trừ mê tín dị đoan và các hủ tục v..v..
Các tổ chức quần chúng từ những hình thức thấp như phường , ban, Hội thương tế, Hội thể dục đến các hình thức cao như Nông hội,Công hội, Hội phụ nữ giải phóng, Đoàn thanh niên phản đế, Hội học sinh, Hội cứu tế đỏ v..v..đều phát triển mạnh.
Việc tuyên truyền giáo dục ý thức chính trị cho quần chúng qua hội nghị, mít tinh, sách báo cách mạng được tổ chức rộng rãi. Mỗi làng đều có tổ chức các đội tự vệ vũ trang, nhờ đó trận tự trị an làm xómg được bảo đảm, nạn trộm cướp không còn.
Hoảng sợ trước phong trào quần chúng lên cao và trước ảnh hưởng đang ngày càng lớn mạnh, thực dân Pháp đã tiến hành khủng bố cực kì tàn bạo. Chúng cho máy bay ném bom tàn sát đẫm máu cuộc biểu tình của nông dân huyện Hưng Nguyên (Nghệ An) ngày 12-9-1930; điều động lính Pháp và lính khố xanh về đóng chốt tại Vinh –Bến Thủy, cho quân đốt phá, triệt hạ làng mạc. 
Chúng còn ra sức sử dụng những thủ đoạn chia rẽ, dụ dỗ và mua chuộc. Nhiều cơ quan lãnh đạo của Đảng bị phá vỡ, hàng trăm cácn bộ, đảng viên và chiến sĩ yêu nước bị bắt, bị tù đày hoặc bị giết. Mặc dù bị kẻ thù dập tắt trong máu lửa, phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, song có một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn.
Lực lượng cách mạng được phục hồi
Từ cuối năm 1931, cách mạng Việt Nam bước vào thời kì vô cùng khó khăn. Thực dân Pháp và phong kiến tay sai thẳng tay thi hành chính sách khủng bố cực kì tàn bạo. Nhiều chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù đày. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở trung ương và địa phương lần lượt bị phá vỡ.
Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh - Cuộc tập dượt cho cách mạng tháng 8 sau này - Ảnh 3.
Xô viết Nghệ Tĩnh được coi là cuộc tập dượt cách mạng tháng 8 sau này
Nhưng trong nhà tù, các dảng viên cộng sản và những người yêu nước vẫn nêu cao khí phách kiên cường, bất khuất, kiên trì đấu tranh bảo vệ lập trường, quan điểm cách mạng của Đảng ở bên ngoài. Số Đảng viên còn lại ở bên ngoài cũng âm thầm tìm cách gây dựng lại các tổ chức cơ sở của Đảng và quần chúng
Bất chấp sự khủng bố, đánh phá các liệt của địch, các tổ chức cơ sở của Đảng ở các địa phương vẫn tồn tại và kiên trì bám chắc quần chúng để hoạt động, đồng thời còn lợi dụng các tổ chức công khai, hợp pháp của kẻ thù để đấu tranh. 

Cuối năm 1934 đầu năm 1935, hệ thống tổ chức Đảng ở trong nước nói chung đã được khôi phục. Các xử ủy Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì lần lượt được lập lại. Tại các thành phố Hà Nội, Sài Gòn, một số đảng viên cộng sản đã tranh thủ các khả năng đấu tranh hợp pháp để ra tranh cử vào các hội đồng thành phố, lợi dụng diễn đàn công khai để tuyên truyền cổ động quần chúng theo các khẩu hiệu của Đảng.
Các đoàn thể Công hội, Nông hội và các tổ chức của các lực lượng xã hội khác cũng được lập lại. Khắp nơi trong nước, phong trào đã dần dần được phục hồi. Đến tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhât của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc) chuẩn bị cho một cao trào cách mạng mới.


Mặt trận Dân chủ Đông Dương và phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 


Mặt trận Dân chủ Đông Dương và phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ

Trrong những năm 1936 – 1939, Mặt trận Dân chủ Đông Dương và phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ cùng cuộc vận động dân chủ đang trên đà phát triển đã ảnh hưởng tích cực đến cách mạng Việt Nam.

Tình hình thế giới và trong nước
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929 - 1933 đã làm cho mâu thuẫn xã hội trong các nước tư bản chủ nghĩa càng thêm sâu sắc. Giai cấp tư sản lũng đoạn ở nhiều nước mưu tìm lối thoát ra khỏi khủng hoảng bằng cách thiết lập chế độ phát xít – một chế độ độc tài tàn bạo nhất của tư bản tài chính.
Mặt trận Dân chủ Đông Dương và phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ - Ảnh 1.
Adolf Hitler - người thiết lập chế độ phát xít tại Đức
Chúng ra sức xóa bỏ mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân trong nước và ráo riết chuẩn bị cuộc chiến tranh mới để chia lại thị trường và các vùng thuộc địa trên thế giới. Chúng cũng mưu đồ tấn công Liên Xô - thành trì của cách mạng thế giới, hi vọng đẩy lùi phong tràocach mạng vô sản đang phát triển trong nước và trên tòan thế giới.
Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật cùng bè lũ tay sai ở một số nước (Pháp, Tây Ban Nha v.v...) trở thành mối nguy cơ dẫn tới một cuộc chiến tranh mới.
Đứng trước nguy cơ đó. Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản họp ở Mát-xcơ-va (7-1935) xác định kẻ thù nguy hiêm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít. Đại hội đề ra chủ trương thành lập Mặt trận Nhân dân ở các nước, nhằm tập hợp rộng rãi các lực lượng dân chủ đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh do chúng gây ra.
Năm 1936, Mặt trận Nhân dân Pháp do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt, thăng cử vào Nghị viên và lên cầm quyền. Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp đã áp dụng một số chính sách tự do dân chủ cho các nước thuộc địa. Một số tù chính trị ở Việt Nam được thả ra đã nhanh chóng tìm cách hoạt động trở lại.
Lúc đó, ở Việt Nam, hậu quả kéo dài của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 đã tác động sâu sắc không chỉ đến đời sống của các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động mà cả đến những nhà tư sản, địa chủ hạng vừa và nhỏ. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn tiếp tục thi hành chính sách bóc lột, vơ vét, khủng bố và đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân.
Mặt trận Dân chủ Đông Dương và phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ
Căn cứ vào tình hình trên và tiếp thu đường lối của Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định rằng kẻ thù cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này là bọn phản động Pháp cùng bè lũ tay sai không chịu thi hành chính sách của Mặt trận Nhân dân Pháp tại các thuộc địa.
Từ đó, quyết định tạm thời hoãn các khẩu hiệu "Đánh đổ đế quốc Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc lập", "Tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày" và nêu những nhiệm vụ trước mắt của nhân dân Đông Dương là: "Chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình".
Mặt trận Dân chủ Đông Dương và phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ - Ảnh 2.
Trụ sở báo Tin tức – cơ quan ngôn luận của Mặt trận Dân chủ Đông Dương
Để thực hiện các nhiệm vụ đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đề ra chủ trương lập Mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương vào mùa hè năm 1936 (đến tháng 3 - 1938, đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương), nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước, dân chủ tiến bộ, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và bảo vệ hoà bình thế giới.
Về hình thức va phương pháp đấu tranh, những khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp, công khai và nửa công khai được triệt để lợi dụng để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức, giáo dục và mở rộng phong trào đấu tranh của quần chúng.
Từ giữa năm 1936, được tin Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp sắp cử một phái đoàn sang điều tra tình hình thuộc địa ở Đông Dương, Đảng chủ trương phát động một phong trào đấu tranh công khai rộng lớn của quần chúng; mở đầu là cuộc vận động lập Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội, nhằm thu thập nguyện vọng của quân chúng, tiến tới triệu tập Đông Dương đại hội.
Hưởng ứng chủ trương trên, các "Uỷ ban hành động" nối tiếp nhau ra đời ởnhiều địa phương trong cả nước. Quần chúng khắp nơi sôi nổi tổ chức các cuộc mít tinh, hội họp, diễn thuyết để thu thập "dân nguyện", đưa yêu sách đòi Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp phải trả tự do cho tù chính trị, thi hành luật lao động ngày làm 8 giờ vào đảm bảo số ngày nghỉ có lương trong năm cho công nhân, cải thiện đời sống của nhân dân.
Đến đầu năm 1937, nhân dịp đón phái viên Chính phủ Pháp và Toàn quyền mới của xứ Đông Dương), nhiều cuộc mít tính, biểu tỉnh, đưa "dân nguyện"... đã diễn ra, trong đó công nhân và nông dân là lực lượng đông đảo và hăng hái nhất.
Ngoài các yêu sách chung, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp còn đưa ra các yêu sách riêng của mình. Công nhân đòi tự do lập nghiệp đoàn, tăng lương, bớt giờ làm, thi hành luật lao động, thực hiện bảo hiểm xã hội, chống đuổi thợ, chống đánh đập, cúp phạt...
Nông dân đòi chia lại ruộng công, chống sưu cao, thuế nặng, đòi giảm tô, giảm tức... Công chức, học sinh, tiểu thương, tiểu chủ đòi đảm bảo quyền lợi lao động, ban bố các quyền tự do dân chủ, miễn giảm các thứ thuế...
Một phong trào đấu tranh của quần chúng với các cuộc bãi công, bãi thị, bãi khoa, mít tinh, biểu tình đã nổ ra mạnh mẽ, nhất là ở các thành phố, khu mỏ và đồn điền cao su trong Nam, ngoài Bắc.
Mặt trận Dân chủ Đông Dương và phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ - Ảnh 3.
Cuộc mít tinh của quần chúng tại Khu Đấu xảo Hà Nội tháng 5 - 1938
Đặc biệt là phong trào công nhân với cuộc tổng bãi công của công nhân Công ti than Hơn Gai (11 - 1936) và cuộc bãi công của công nhân xe lửa Trường Thi (Vinh, tháng 7 - 1937).
Ngày Quốc tế lao động 1 – 5 – 1938, tai Khu Đấu xảo (Hà Nội), đã diễn ra cuộc mít tình khổng lồ của 2,5 vạn người, hô vang các khẩu hiệu đòi tự do lập hội ái hữu, nghiệp đoàn, đòi thì hành triệt để luật lao động, đòi giảm thuế. chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ hoà hình và chống nạn snh hoạt đắt đỏ.
Nhiều tờ báo công khai của Đảng, của Mặt trận Dân chủ Đông Dương và các đoàn thể quần chúng đã ra đời (Tiền phong, Dân chúng, Lao động, Bạn dân, Tin tức, Nhánh lúa, v.v...). Một số sách chính trị phổ thông giới thiệu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chính sách của Đảng cũng được lưu hành rộng rãi, trong đó có cuốn Vận đề dân cày của Qua Ninh va Vân Đình.
Mặt trận Dân chủ Đông Dương và phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ - Ảnh 4.
Một số tờ báo cách mạng thời kỳ 1936 - 1939
Từ cuối năm 1938, Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp do Đảng Xã hội Pháp đứng đầu ngày càng thiên về hữu. Theo đà, bọn thực dân phản động Pháp ngóc đầu dậy phản công lại Mặt trận Dân chủ Đông Dương, cấm những hoạt động cách mạng và khủng bố những chiến sĩ tham gia phong trào. Phong trào đấ tranh công khai bị thu hẹp dần và đến thang 9 - 1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ thì chấm dứt.
Ý nghĩa của phong trào

Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và thấm sâu trong nhân dân, chủ nghĩa Mác - Lê-nin cùng như đường lối chính sách của Đảng, của Quốc tế Cộng sản được phổ biến, tuyên truyền và giáo dục sâu rộng.Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 là một cao trào cách mạng dân tộc, dân chủ rộng lớn. Trong khi lãnh đạo phong trào quần chúng, trình độ chính trị và công tác của cán bộ và đảng viên đã được nâng cao một bước rõ rệt.
Các sách báo của Đảng và của Mặt trận Dân chủ đã có tác dụng lớn trong việc động viên, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh, đồng thời đập tan những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc và những hành động phá hoại của bè lũ phản động, làm cho chúng càng bị cô lập.
Trong hoàn cảnh đó, tổ chức của Đảng đã được củng cố và phát triển. Đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người ở thành thị và nông thôn được Đảng tập hợp, xây dựng, giáo duc, đồng thời cũng bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ cách mạng đông đảo, dày dặn trong đấu tranh, có nhiều kinh nghiệm.


Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa năm 1945

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 


Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa năm 1945

Năm 1940, Mặt trận Việt Minh được thành lập để tập hợp lực lượng đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc.  



Chiến tranh thế giới thứ hai đã bước sang năm thứ ba. Sau khi lần lượt đánh bại ba nước Pháp, Bỉ, Hà Lan và chiếm phần lớn lục địa châu Âu, tháng 6 - 1941, phát xít Đức mở cuộc tấn công Liên Xô. Trên thế giới đã hình thành hai trận tuyến: một bên là các lưc lượng dân chủ, do Liên Xô đứng đầu, và một bên là khối phát xít Đức, Ý, Nhật. 
Ngay từ đầu, cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã là một bộ phận trong cuộc đấu tranh của các lực lượng dân chủ.
Trước tình hình thế giới và trong nước ngày càng khẩn trương, ngày 28 – 1 – 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước triệu tập Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghị họp tại Pác Bó (Cao Bằng) từ ngày 10 đến ngày 19 - 5 - 1941.
Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa năm 1945 - Ảnh 1.
Lán Khuổi Nậm ở Pác Bó (Cao Bằng) nơi diễn ra Hội nghị thành lập Mặt trận Việt Minh
Hội nghị chủ trương trước hết phải giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách Pháp – Nhật. Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày" thay bằng các khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất củo đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công", tiến tới thực hiện "Người cày có ruộng". 
Hội nghị chủ trương thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) bao gồm các tổ chức quần chúng, lấy tên là Hội Cứu Quốc nhằm: "Liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn".
Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập ngày 19 - 5 - 1941. Chỉ sau một thời gian ngắn, tổ chức này đã có uy tín và ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân. Sau Hội nghị Trung ương, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp – Nhật.
Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa năm 1945 - Ảnh 2.
Lá cờ do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mang từ nước ngoài về treo trong ngày thành lập Việt Minh
Công tác xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới vũ trang khởi nghĩa khi thời cơ đến được đặc biệt coi trọng. Ngày từ cuối năm 1940, sau khi khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, theo chủ trương của Đảng, một bộ phận lực lượng vũ trang khởi nghĩa được tổ chức lại thành các đội du kích, sang năm 1941 phát triển thành trung đội Cứu quốc quân hoạt động ở Căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. 
Để đối phó với sự vây quét của địch, Cứu quốc quân đã phát động chiến tranh du kích, sau đó phân tán thành nhiều bộ phận để chân chính lực lương và tiến hành công tác vũ trang tuyên truyền, gây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng tại các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn.
Cao Bằng được coi là nơi thí điểm của cuộc vận động xây dựng các Hội Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942, khắp chính châu của Cao Bằng đều có Hội Cứu quốc, trong đó có ba châu "hoàn toàn" - nghĩa là mọi người đều gia nhập tổ chức Việt Minh, xã nào cũng có Uỷ ban Việt Minh. 
Rồi Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng được thành lập. Sang năm 1943, Ủy ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc – Lạng lập ra 19 ban xung phong "Nam tiến" để liên lạc với Căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai và phát triển lực lượng cách mạng xuống các tỉnh miền xuôi.
Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa năm 1945 - Ảnh 3.
Các điều lệ của Việt Minh
Trong khi chú trọng xây dựng lực lượng chính trị trong quần chúng cơ bản ở nông thôn và thành thị, Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn không xem nhẹ việc tranh thủ tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân khác như sinh viên, học sinh, trí thức, tư sản dân tộc vào mặt trận cứu quốc.
Báo chí của Đảng và của Mặt trận Việt Minh (Giải phóng, Cờ giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Kèn gọi lính…) phát triển rất phong phú, đã góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, đấu tranh chống mọi thủ đoạn chính trị, văn hóa của địch, thu hút đồng đảo quần chúng vào hàng ngũ cách mạng.
Bước sang đầu năm 1944, tình hình nước ta và thế giới chuyển biến có lợi cho cách mạng. Cuộc chiến tranh chống phát xít bước vào giai đoạn kết thúc.
Đầu tháng 5 – 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp sửa soạn khởi nghĩa và Kêu gọi nhân dân "sắm vũ khí đuổi thù chung". Không khí chuẩn bị khởi nghĩa sôi sục trong khu căn cứ.
Tình hình lúc này rất khẩn trương. Tháng 10 – 1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) đã gửi thư cho đồng bào toàn quốc nêu rõ: "Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệ… Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!".
Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa năm 1945 - Ảnh 4.
Lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tháng 12 - 1944

Phát huy thắng lợi đầu tiến, đội quân giải phóng đã đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, kết hợp chính trị với quân sự, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần củng cố và mở rộng căn cứ Cao – Bắc – Lạng, cổ vũ và thúc đấy phong trào cách mang của quần chúng trong cả nước. Quân địch ở các đồn hoang mang lo sợ. Một số Việt gian ra đầu thú chính quyền cách mạng hoặc xin trả lại của cải đã cướp đoạt của nhân dân.Sau đó, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập (22 - 12 - 1944), phát động một phong trào đấu tranh chính trị và quân sự để thúc đẩy quá trình cách mạng tiến lên mạnh mẽ hơn nữa. Cuối tháng 12 - 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng).
Đồng thời ở Thái Nguyên, đội Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích. Chính quyền nhân dân được thành lập suốt một vùng rộng lớn, phía nam xuống tận tỉnh lị Thái Nguyên và Vĩnh Yên.


Dưới 2 tầng áp bức, nhân dân ta bị đẩy đến tình trạng cực khổ điêu đứng

B.T sưu tầm, SGK Sử 9


Dưới 2 tầng áp bức, nhân dân ta bị đẩy đến tình trạng cực khổ điêu đứng

Pháp đầu hàng và câu kết ngày thêm chặt chẽ với Nhật ở Việt Nam. Đời sống nhân dân dưới hai tầng áp bức bóc lột Nhật – Pháp vô cùng cực khổ, điêu đứng. Trong bối cảnh bùng nổ các cuộc nổi dạy báo trước cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.  



Tình hình thế giới và Đông Dương
Tháng 9 - 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở châu Âu, tháng 6 - 1940 quân đội phát xít Đưc kéo vào nước Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức. Ớ Viễn Đông, quân phiệt Nhật cũng đẩy mạnh xâm lược Trung Quốc và cho quân tiến sát biên giới Việt - Trung.
Thực dân Pháp ở Đông Dương đứng trước hai nguy cơ: một là ngọn lửa cách mạng giải phóng của nhân dân Đông Dương sớm muộn sẽ bùng cháy; hai là phát xít Nhật đang lăm le hất cẳng chúng.
Dưới 2 tầng áp bức, nhân dân ta bị đẩy đến tình trạng cực khổ điêu đứng - Ảnh 1.
Quân Đức tiến vào Paris (Pháp) tháng 6 - 1940
Sau khi đầu hàng Nhật ở Lạng Sơn (9 - 1940), rồi mở cửa cho chúng vào Đông Dương, thực dân Pháp đa suy yếu rõ rệt. Nhật tiếp tục lấn bước để biến Đông Dương thành thuộc địa và căn cứ chiến tranh của chúng. Ngày 23 - 7 - 1941, tại Hà Nội, Chính phủ Pháp công bố kí kết một hiệp ước giữa Pháp và Nhật - Hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương.
Hiệp ước thừa nhân Nhật có quyền sử dụng tất cả sân bay và cửa biển ở Đông Dương vào mục đích quân sự. 
Khi phát động chiến tranh Thái Bình Dương (7 - 12 - 1941), Nhật lại bắt thực dân Pháp ở Đông Dương kí thêm một hiệp ước cam kết hợp tác với chúng về mọi mặt (như tạo mọi sự dễ dàng cho việc hành binh, cung cấp lương thực, bố trí doanh trại, giữ gìn trật tự xã hội ở Đông Dương) để bảo đảm hậu phương an toàn cho quân đội Nhật. Kể từ đây, trong thực tế, Pháp và Nhật đã câu kết chặt chẽ với nhau trong việc đàn áp, bóc lột nhân dân Đông Dương.
Mặc dù bị Nhật ức hiếp, tước đoạt mọi bề, thực dân Pháp vẫn có nhiều thủ đoạn gian xảo để thu được lợi nhuận cao nhất. 
Trước hết, chúng thi hành chính sách "kinh tế chỉ huy", thực chất là lợi dụng thời chiến để nắm độc quyền toàn bộ nền kinh tế Đông Dương và tăng cường việc đầu cơ tích trữ để vơ vét bóc lột nhân dân ta được nhiều hơn. Thủ đoạn thứ hai là tăng các loại thuế. Riêng các khoản thuế rượu, muối và thuốc phiện từ năm 1939 đến năm 1945 đã tăng lên gấp ba lần.
Thủ đoạn tàn ác của Nhật là thu mua lương thực, chủ yếu là lúa gạo, theo lối cưỡng bức vơi giá rẻ mạt. một phần để cung cấp cho quân đội Nhật, một phần để tích trữ, chuẩn bị chiến tranh. Chính thủ đoạn tàn ác này đã gây ra nạn khan hiếm lương thực nghiêm trọng làm cho khoảng 2 triệu đồng bào ta, chủ yếu là nông dân ở miền Bắc chết đói vao cuối năm 1944 đầu năm 1945.
Dưới hai tầng áp bức, bóc lột nặng nề của Pháp – Nhật, các tầng lớp nhân dân ta bị đẩy đến tình trạng cực khổ điêu đứng.
Những cuộc nổi dậy đầu tiên
Khởi nghĩa Bắc Sơn (27 - 9 - 1940)
Quân Nhật đánh vào Lạng Sơn, quân đội Pháp trên đường thua chạy đã rút qua châu Bắc Sơn. Nhân cơ hội đó, Đảng bộ Bắc Sơn lãnh đạo nhân dân nổi dậy tước khí giới của tàn quân Pháp để tự vũ trang cho mình, giải tán chính quyền địch và thành lập chính quyền cách mạng (27 - 9 - 1940). Nhưng sau đó, Nhật đã thỏa hiệp để Pháp quay trở lại đàn áp, dồn dân, bắt giết cán bộ, đốt phá nhà cửa, cướp đoạt sản của nhân dân.
Dưới 2 tầng áp bức, nhân dân ta bị đẩy đến tình trạng cực khổ điêu đứng - Ảnh 2.
Lược đồ khởi nghĩa Bắc Sơn
Dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương, nhân dân ta đã đấu tranh quyết liệt chống khủng bố, tổ chức các toán vũ trang đi lùng bắt và trừng trị bọn tay sai của địch. Nhờ đó, các cơ sở của cuộc khởi nghĩa vẫn được duy trì, quân khởi nghĩa tiến dần lên lập căn cứ quân sự. 
Một Ủy ban chỉ huy được thành lập để phụ trách mọi mặt công tác cách mạng. Những tài sản của đế quốc và tay sai đều bị tịch thu đem chia cho dân nghèo và các gia đình bị thiệt hại. Quần chúng phấn khởi gia nhập đội quân cách mạng rất đông. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập và lớn dần lên, sang năm 1941 phát triển thành Cứ quốc quân, hoạt động ở vùng Bắc Sơn (Lạng Sơn), Võ Nhai (Thái Nguyên).
Khởi nghĩa Nam Kì (23 - 11 - 1940)
Lợi dụng bối cảnh quân Pháp thua trận ở châu Âu và yếu thế ở Đông Dương, quân Xiêm (Thái Lan) được phát xít Nhật xúi giục, giúp đỡ để khiêu khích và gây xung đột dọc biên giới Lào - Cam-pu-chia. 
Để chống lại, thực dân Pháp đã bắt binh lính Việt Nam ra trận chết thay cho chúng. Nhân dân Nam Kì rất bất bình, đặc biệt nhiều binh lính đã đào ngũ, hoặc bị mất liên lạc với Đảng bộ Nam Kì.
Dưới 2 tầng áp bức, nhân dân ta bị đẩy đến tình trạng cực khổ điêu đứng - Ảnh 3.
Lược đồ khởi nghĩa Nam Kì

Trước ngày khởi sự, một số cán bộ chỉ huy đã bị bắt, do đó kế hoạch khởi nghĩa bị lộ. Thực dân Pháp cho thiết quân luật, giữ binh lính người Việt trong trại và tước hết khí giới của họ, ra lệnh giới nghiêm và bủa lưới săn lùng các chiến sĩ cách mạng.Trước tình thế cấp bách, Đảng bộ Nam Kì đã quyết định khởi nghĩa tuy chưa có sự đồng ý của Trung ương Đảng. Lệnh đình chỉ phát động khởi nghĩa của Trung ương Đảng từ ngoài Bắc đưa vào Nam Kì tới chậm. 
Theo kế hoạch đã định, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra vào đêm 22 rạng sáng 23 – 11 – 1940 ở hầu khắp các tỉnh Nam Kì. Nghĩa quân triệt hạ một số đồn bốt giặc, phá nhiều đường giao thông: thành lập chính quyền nhân dân và tòa án cách mạng ở nhiều vùng thuộc các tỉnh Mỹ Tho, Gia Định... 
Lá cờ đỏ sao vàng đã xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa này. Do thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, cơ sở Đảng bị tổn thất nặng, nhưng một số nghi quân đã rút vào hoạt động bí mật chờ cơ hội hoạt động trở lại.
Dưới 2 tầng áp bức, nhân dân ta bị đẩy đến tình trạng cực khổ điêu đứng - Ảnh 5.
Khởi nghĩa Nam Kỳ ở Bến Tre năm 1940
Binh biến Đô Lương (13 - 1 - 1941)
Phong trào cách mạng dâng cao đã ảnh hưởng đến tinh thần giác ngộ của binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Tại Nghệ An, binh lính người Việt hết sức bất bình vì bị bắt sang Lào làm bia đỡ đạn cho quân Pháp.
Dưới 2 tầng áp bức, nhân dân ta bị đẩy đến tình trạng cực khổ điêu đứng - Ảnh 6.
Lược đồ binh biến Đô Lương
Ngày l3 – 1 – 1941, dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung), binh lính đồn chợ Rạng đã nổi dậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồ Đô Lương, rồi lên ô tô kéo về Vinh đình phối hợp với số binh lính ở đây chiếm thành. Nhưng kế hoạch không thực hiện được, Đội Cung bị Pháp bắt. 
Mặc dù bị giặc tra tấn rất dã man, trước sau ông vẫn nhất định không khai và nhận hết trách nhiệm về mình. Quân Pháp đá xử tử Đội Cung cùng 10 đồng đội của ông, kết án khổ sai và đưa đi đầy nhiều người khác.
Các cuộc khởi nghĩa và binh biến nói trên, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã để lại cho Đảng Cộng sản Đông Dương những bài học bổ ích về khởi nghĩa vũ trang, về xây dựng lực lượng vũ trang và chiến tranh du kích, trực tiếp chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.


Tranh thủ cơ hội khi Thế chiến II gần kết thúc, đảng Cộng Sản phát động tổng khởi nghĩa

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 


Tranh thủ cơ hội khi Thế chiến II gần kết thúc, đảng Cộng Sản phát động tổng khởi nghĩa

Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng Sản Đông Dương họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 14 đến ngày 15-8-1945 đã quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước khi quân Đồng minh vào.

Lệnh Tổng khởi nghĩa được ban bố
Chiến tranh thế giới thứ hai đang tới những ngày cuối. Ở châu Âu, phát xít Đức đã bị đánh bại và buộc phải đầu hàng không điều kiện vào tháng 5-1945. Ở châu Á, quân phiệt Nhật đã đầu hàng Đồng minh không điều kiện (8-1945).
Ngay khi nghe tin Chính phủ Nhật đầu hàng. Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và ra Quân lệnh số 1, kêu gọi toàn dân nổi dậy. Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng Sản Đông Dương họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 14 đến ngày 15-8-1945 đã quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước khi quân Đồng minh vào.
Tranh thủ cơ hội khi Thế chiến II gần kết thúc, đảng Cộng Sản phát động tổng khởi nghĩa - Ảnh 1.
Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa
Tiếp theo, Đại hội Quốc dân được tiến hành ở Tân Trào (16-8) gồm đại biểu ba xứ thuộc đủ các giới, các đoàn thể, các dân tộc, tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân. Lần đầu tiên, lãnh tụ Hồ Chí Minh ra mắt các đại biểu quốc dân
Đại hội đã nhất trí tán thành quyết định Tổng khởi nghĩa, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ Lâm thời sau này) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào cả nước kêu gọi nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Chiều 16-8, theo lệnh của Ủy ban Khởi nghĩa, một đội quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào tiến về bao vây và tấn công quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên, mở đường về Hà Nội.
Giành chính quyền ở Hà Nội
Ở Hà Nội, từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp, không khí cách mạng càng thêm sôi động. Các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên hăng hái gia nhập các đoàn thể cứu quốc, các đội tự vệ chiến đấu. Các đội Tuyên truyền xung phong của Việt Minh thẳng tay trừ khử những tên tay sai đắc lực của Nhật.
Tối 15-8, Đội Tuyên truyền xung phong của Việt Minh tổ chức diễn thuyết công khai ở ba rạp hát lớn trong thành phố. Ngày 16-8, truyền đơn biểu ngữ kêu gọi khởi nghĩa xuất hiện khắp nơi. Chính quyền bù nhìn thân Nhật lung lay đến tận gốc rễ.
Đén sáng 19-8, cả Hà nội tràn ngập khí thế cách mạng. Đồng bào rầm rập kéo tới quảng trường Nhà hát lớn dự cuộc mít tinh do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Đại biểu Việt Minh đọc Tuyên ngôn, Chương trình của Việt Minh và kêu gọi nhân dân đứng lên giành chính quyền. Bài hát Tiến quân ca lần đầu tiên vang lên.
Tranh thủ cơ hội khi Thế chiến II gần kết thúc, đảng Cộng Sản phát động tổng khởi nghĩa - Ảnh 2.
Cuộc Mít tinh ở Nhà hát lớn đã nhanh chóng trở thành cuộc biểu tình giành chính quyền ở Hà Nội
Cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành biểu tình, chia ra nhiều đoàn đi chiếm các công sở của chính quyền bù nhìn. Trước khí thế của quần chúng khởi nghĩa, quân Nhật không dám chống lại. Cuộc khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn ở Hà Nội,
Giành chính quyền trong cả nước
Ngay từ những ngày đầu tháng 8, một không khí gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa đã sục sôi trong cả nước. Từ ngày 14-8 đến ngày 18-8. Ở nhiều xã, huyện thuộc một số tỉnh đã nối tiếp nhau chớp thời cơ giành chính quyền. Bốn tỉnh giành được chính quyền ở tỉnh lị sớm nhất trong cả nước là Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh và Quảng Nam.
Khi có tin Nhật đầu hàng, lệnh khởi nghĩa truyền xuống và tin Hà Nội giải phóng báo về thì cuộc khởi nghĩa trong cả nước càng lan nhanh như một dây thuốc nổ. Tiếp sau Hà Nội, đến lượt Huế (23-8), rồi Sài Gòn (25-8). Trước tình thế vũ bão của cách mạng, vua Bảo Đại phải thoái vị. Chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 đến 28-8), cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới rằng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời.
Ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thành công của Cách mạng tháng Tám
Cách mạng tháng Tám là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó đã phá tan hai tầng xiền xích nô lệ của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đồng thời lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại ngót ngàn năm. Việt Nam từ một nước thuộc địa đã trở thành một nước độc lập dưới chế độ dân chủ cộng hòa, đưa nhân dân từ thân phận nô lệ thành người dân độc lập tự do, làm chủ nước nhà.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, một kỉ nguyên mới của lịch sử dân tộc ta đã mở ra - kỉ nguyên độc lập và tự do.
Về mặt quốc tế, Cách mạng tháng Tám là thắng lợi lớn đầu tiên trong thời đại mới của một dân tộc nhược tiểu đã tự giải phóng khỏi ách đế quốc thực dân. Thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa trên thế giới, đặc biệt là nhân dân châu Á và châu Phi.
Tranh thủ cơ hội khi Thế chiến II gần kết thúc, đảng Cộng Sản phát động tổng khởi nghĩa - Ảnh 3.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Việt Nam
Cách mạng tháng Tám thành công là do các nguyên nhân sau:

Có khối liên minh công nông vững chắc, tập hợp được một lực lượng yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, lại biết kết hợp tinh thần đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh du kích với với khởi nghĩa từng phần ở nông thôn, tiến lên phát động tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị, đnáh đổ hoàn toàn bộ máy cai trị của đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dânDân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước sâu sắc, đã đấu tranh kiên cường bất khuất từ ngàn xưa cho độc lập, tự do. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước thì mọi người hăng hái hưởng ứng.
Cách mạng tháng Tám thắng lợi tương đối nhanh chóng và ít đổ máu một phần nhờ hoàn cách quốc tế thuận lợi. Chiến tranh thế giứoi thứ hai đang đi đến hồi kết thúc, Hồng quân Liên Xô và quân Đồng Minh đã đánh bại phát xít Đức-Nhật góp phần quyết định vào thắng lợi chung của các lực lượng hòa bình, dân chủ trên thế giới.


Đối phó thù trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền Việt Nam

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 


Đối phó thù trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền Việt Nam

Chỉ 10 ngày sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, quân đội của các nước trong ph Đồng Minh, với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, đã kéo vào nước ta  



Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám
Chỉ 10 ngày sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, quân đội của các nước trong ph Đồng Minh, với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, đã kéo vào nước ta.
Từ vĩ tuyến 16 (Đà Nẵng) trở ra Bắc. 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ồ ạt vào Hà Nội và hầu khắp các tỉnh. Chúng kéo theo bọn tay chân nằm trong các tổ chức phản động: Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách) với âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, thành lập chính quyền tay sai. 
Trong khi đó, từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh đã mở đường cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Lợi dụng tình hình trên, các lực lượng phản cách mạng ở mièn Nam như Đại Việt, Tờ-rốt-kít, bọn phản động trong các giáo phái ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp, ra sức chống phá cách mạng.
Ở nước ta lúc đó còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp, nhưng một bộ phận của chúng đã theo lệnh đế quốc Anh đánh lại lực lượng vũ trang của ta, tạo điều kiện cho thực dân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng.
Đối phó thù trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền Việt Nam - Ảnh 1.
Thự dân Pháp đổ bộ vào miền Nam tháng 12-1945, hòng tái lập chế độ thuộc địa, đe dọa nền độc lập của chúng ta
Nền độc lập, tự do của nước ta bị đe dọa nghiêm trọng, nhà nước cách mạng lại chưa được củng cố. Nền kinh tế nước ra chủ yếu là nông nghiệp vốn đã nghèo nàn, lạc hậu còn bị chiến tranh tàn phá nặng nề. 
Hậu quả của nạn đói do Nhật-Pháp gây ra cuối năm 1944 đầu năm 1945 vẫn chưa được khắc phục. Tiếp đó, nạn lụt lớn tháng 8-1945 làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ, rồi đến hạn hán kéo dài, làm cho 50% ruộng đất không thể cấy cày được. Sản xuất công nghiệp đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt. Nạn đói mới lại đang đe dọa nghiêm trọng trong đời sống nhân dân
Ngân sách nhà nước lúc này hầu như trống rỗng. Nhà nước cách mạng lại chưa kiểm soát được Ngân hàng Đông Dương. Thêm vào đó, quân Tưởng tung ra trên thị trường các loại tiền đã mất giá trị, càng làm cho nền tài chính nước ta rối loạn.
Chế độ thực dân, phong kiến để lại những hậu quả rất nặng nề về mặt văn hóa: hơn 90% dân số không biết chữ, các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút...tràn lan.
Bước đầu xây dựng chế độ mới
Ngày 8-9-1945, Chính phủ Lâm thời công bố lệnh Tổng tuyển cử trong cả nước.
Ngày 6-1-1946, vượt qua mọi hành động chống phá của kẻ thù, lần đàu tiên trong lịch sử dân tộc, hơn 90% cử tri trong cả nước đã nô nức đi bầu cử những đại biểu chân chính của mình vào cơ quan quyền lực cao nhất của cả nước. Đồng bào Nam Bộ đã phải đổ máu khi bỏ phiếu.
333 đại biểu khắp Bắc-Trung-Nam, tượng trung cho khối đại đoàn kết toàn dân, được bầu vào Quốc hội. Ngày 2-3-1946, tại phiên họp đầu tiền ở Hà Nội, Quốc hội nhất trí xác nhận thành tích của chính phủ Lâm thời trong những ngày đầu xây dựng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đồng thời lập ra Ban Dự thảo Hiến pháp và thông qua danh sách Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Đối phó thù trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền Việt Nam - Ảnh 2.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Sau bầu cử Quốc hội, khắp các địa phương từ tỉnh đến xã ở Trung Bộ và Bắc Bộ đều tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Ủy ban hành chính các cấp được thành lập, thay cho các Ủy ban nhân dân. Bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân bước đầu được củng cố và kiện toàn.
Ngày 29-5-1946, Hội Liên Hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt) được thành lập để tăng cường và mở rộng khối đoàn kết toàn dân.
Để giải quyết nạn đói, đồng bào cả nước hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và noi gương Người, lập các hũ gạo cứu đói và không dùng gạo, ngô để nấu rượu, tổ chức "ngày đồng tâm" để có thêm gạo cứu đói.
Việc tăng gia sản xuất được đẩy mạnh
Phong trào thi đua sản xuất được dấy lên ở khắp các địa phương. Diện tích ruộng đất hoang hóa nhanh chóng được gieo trồng các loại cây lương thực và hoa màu. Công nhân, bộ đội, cán bộ, viên chức nhà nước, học sinh, trí thức, công thương v..v.. tự nguyện tổ chức thành từng đoàn, từng đội đi về nông thôn giúp nông dân đắp đê phòng lụt, khai hoang, phục hòa.
Chính quyền cách mạng còn tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho nông dân nghèo: chia lại ruộng đất công theo nguyên tắc công bằng và dân chủ, ra thông tư giảm tô: ra sắc lệnh bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lí khác.
Đối phó thù trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền Việt Nam - Ảnh 3.
Lớp bình dân học vụ nhằm xóa mù chữ
Nhờ có những biện pháp tích cực trên đây, nạn đói đã được đẩy lùi.

Nhằm giải quyết những khó khăn về tài chính, Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân. Hưởng ứng xây dựng "Quỹ độc lập" và phong trào "Tuần lễ vàng" do Chính phủ phát động, đồng bào cả nước hăng hái đóng góp tiền của, vàng, bạc. Ngày 31-1-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam, đến ngày 23-11-1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nướcĐể xóa nạn mù chữ và nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân lao động, ngày 8-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập cơ quan Bình dân học vụ và kêu gọi toàn dân tham gia phong trào xóa nạn mù chữ. Các cấp học đều phát triển mạnh. Nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu đổi mới theo tinh thần dân tộc và dân chủ.

Pháp truy tìm cơ quan đầu não của ta nhưng lại bị đánh bật khỏi Việt Bắc

B.T sưu tầm, SGK SỬ 9 
Pháp truy tìm cơ quan đầu não của ta nhưng lại bị đánh bật khỏi Việt Bắc

Thực hiện chỉ thị của Trung ương, trên các hướng, khắp các mặt trận, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bẻ gãy từng gọng kìm của chúng.

Thực dân Pháp tiến công Căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc
Để giải quyết khó khăn khi phạm vi chiếm đóng mở rộng và thực hiện âm mưu "Đánh nhanh thắng nhanh", tháng 3-1947, Chính phủ Pháp cử Bô-la-éc làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương thay Đắc-giăng-li-ơ
Thực hiện âm mưu tập hợp những phần tử Việt gian phản động, Bô-la-éc lập ra Mặt trận quốc gia thống nhất , tiến tới thành lập một Chính phủ bù nhìn trung ương.
Cùng lúc, thực dân Pháp huy động 12000 quân tinh nhuệ và hầu hết máy bay ở Đông Dương, chia thành ba cácnh, mở cuộc tiến công Căn cứ địa Việt Bắc nhằm phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, khóa chặt biên giới Việt-Trung, ngăn chặn liên lạc giữa ta với quốc tế...
Ngày 7-10-1947, từ sáng sớm, một binh đoàn dù đổ quân xuống chiếm thị xã Bắc Cạn và chiếm thị trấn Chợ Mới, Chợ Đồn.
Cùng ngày hôm đó, một binh đoàn lính bộ từ Lạng Sơn đánh lên Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng, một cánh quân khác đánh xuống Bắc Cạn, tạo thành gọng kìm bao vây phía đông và phía bắc Căn cứ Việt Bắc.
Ngày 9-10-1947, một binh đoàn hỗn hợp lính bộ và lính thủy đánh bộ ngược dòng sông Hồng, sông Lô và sông Gấm lên thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hóa, Đai Thị (Tuyên Quang), bao vây phía tây Căn cứ địa Việt Bắc.
Pháp truy tìm cơ quan đầu não của ta nhưng lại bị đánh bật khỏi Việt Bắc - Ảnh 1.
Lược đồ chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947
Quân dân ta chiến đấu bảo vệ Căn cứ địa Việt Bắc
Thực hiện chỉ thị của Trung ương, trên các hướng, khắp các mặt trận, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bẻ gãy từng gọng kìm của chúng.
Tại Bắc Cạn, ngay từ đầu, quân dân ta chủ động, kịp thời phản công và tiến công địch, tiến hành bao vây, chia cắt, cô lập chúng, tổ chức đánh tập kích vào những nơi địch chiếm đóng, phục kích trên đường từ Bắc Cạn đi Chợ Mới, Chợ Đồn. Vừa chặn đánh địch, ta vừa bí mật, khẩn trương di chuyên các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, các công xưởng, kho tàng từ nơi địch uy hiếp chiếm đóng đến nơi an toàn
Ở huớng Đông, quân ta phục kích chặn đánh địch trên Đường số 4, cản bước tiến của chúng, tiêu biểu làt trận đánh phục kích trên đường Bản Sao-đèo Bông Lau ngày 30-10-1947.
Ở hướng Tây, quân ta phục kích chặn đánh nhiều trận trên sông Lô. Cuối tháng 10-1947, 5 tàu chiến địch có máy bay hộ tống từ Tuyên Quang đi Đoan Hùng 11-1947, 2 tàu chiến và 1 ca nô địch từ Chiêm Hóa về thị xã Tuyên Quang đã lọt vào trận địa phục kích của ta (tại Khe Lau, ngã ba sông Lô và sông Gấm).
Pháp truy tìm cơ quan đầu não của ta nhưng lại bị đánh bật khỏi Việt Bắc - Ảnh 2.
Chiến sĩ pháo binh trong chiến dịch Việt Bắc 1947 (Ảnh: giaoduc.net)
Phối hợp với cuộc chiến đấu ở Việt Bắc, quân dân ta trên các chiến trường toàn quốc hoạt động mạnh, góp phần kiềm chế quân địch.
Cuộc chiến đấu liên tục 75 ngày đêm đã kết thúc bằng cuộc rút chạy của đại bộ phận quân Pháp khỏi Việt Bắc. Căn cứ địa Việt Bắc biến thành "mồ chồn giặc Pháp". Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo toàn. Bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành.
Đẩy mạng kháng chiến toàn dân, toàn diện
Sau thất bại ở Việt Bắc, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh nhằm chống lại cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện của ta.
Về phía ta, thực hiện phương châm chiến lược "đánh lâu dài", phá âm mưu mới của địch, Đảng và Chính phủ chủ trương tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chính quyền dân chủ nhân dân từ trung ương đến cơ sở, tăng cường lực lượng vũ trang nhân dân, đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.
Về quân sự, ta chủ trương động viên nhân dân thực hiện vũ trang toàn dân, phát triển chiến tranh du kích.
Pháp truy tìm cơ quan đầu não của ta nhưng lại bị đánh bật khỏi Việt Bắc - Ảnh 3.
Bác Hồ với các chiến sĩ tại căn cứ Việt Bắc
Về chính trị và ngoại giao, năm 1948, tại Nam Bộ, lần đầu tiên ta tiến hành bầu cử Hội đồng Nhân dân cấp xã đến cấp tỉnh. Ở nhiều nơi, Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Kháng chiến hành chính các cấp được củng cố và kiện toàn.Tháng 6-1949, Việt Minh và Hội Liên Việt quyết định tiến tới thống nhất hai tổ chức từ cơ sở đến trung ương.
Ngày 14-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với bất cứ nước nào tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Sau lời tuyên bố đó, chính phủ nhiều nước chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta: đầu tiên là Trung Quốc, tiếp đến là Liên Xô, rồi lần lượt các nước dân chủ nhân dân khác.
Về kinh tế, ta chủ trương vừa ra sức phá hoại kinh tế địch, vừa đẩy mạnh xây dựng và bảo vệ nền kinht tế dân chủ nhân dân có khả năng tự cung tự cấp.
Về văn hóa giáo dục, tháng 7-1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục phổ thông, thay thế hệ thống giáo dục 12 năm bằng hệ thống giáo dục 9 năm, hướng giáo dục phục vụ kháng chiến và kiến quốc, đặt nền móng cho nền giáo dục dân chủ nhân dân.

Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp

B.T sưu tầm, SGK Sử 9
Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp

Sau hàng loạt hành động phá hoại của Pháp, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ ngày 19 – 12 – 1946, mở đầu bằng cuộc chiến đấu ở Hà Nội.

Bùng nổ kháng chiến
Mặc dù đã kí Hiệp định Sơ bộ ngày 6 - 3 - 1946 và Tạm ước ngày 14 - 9 - 1946, thực dân Pháp tìm cách phá hoại, nhằm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa.
Từ cuối tháng 11 - 1946, tình hình trong Nam ngoài Bắc hết sức căng thẳng. Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tập trung quân tiến công các cơ sở cách mạnh, vùng tự do, căn cứ địa của ta.
Ở Bắc Bộ, ngày 20 - 11 - 1946, Pháp đánh chiếm một số vị trí quan trọng ở thành phố Hải Phòng, nổ súng vào quân ta ở thị xã Lạng Sơn.
Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12 - 1946, thực dân Pháp liên tiếp gây ra những cuộc xung đột vũ trang, đốt nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, đánh chiếm cơ quan Bộ Tài chính, gây xung đột đổ máu ở cầu Long Biên, tàn sát nhiều đồng bào ta ở phố Hàng Bún.
Ngày 18 - 12 - 1946, Pháp gửi hai tối hậu thư buộc Chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, giao quyền kiềm soát Thủ đô cho quân đội chúng. Pháp tuyên bố: nếu ta không chấp nhận thì ngày 20 - 12 - 1946, chúng sẽ hành động.
Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp - Ảnh 1.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hai ngày l8 và 19 - 12 - 1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Đông - Hà Nội) đã quyết định phát động toàn quốc kháng chiến.
Ngay tối 19 - 12 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
"…Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.
Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng cuốc, xuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước... Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thì thắng lợi nhất định về dân tộc ta!".
Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta trong cả nước, trước tiên là nhân dân Hà Nội, đứng lên kháng chiến. Đêm 19 - 12 - 1946, tiếng súng kháng chiến bắt đầu.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của ta
Những nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược được thể hiện trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, sau đó được nêu đầy đủ, giải thích cụ thể trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh tháng 9 – 1947. 
Tính chất, mục đích, nội dung, phương châm chiến lược của cuộc chiến tranh nhân dân là toàn dân, toàn điện, trường kì, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Cuộc kháng chiến của ta là cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh tự vệ, chính nghĩa, tiến bộ, nhằm hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, từng bước thực hiện nhiệm vụ dân chủ, đem lại ruộng đất cho nhân dân.
Cuộc kháng chiến đó do toàn dân tiến hành. Nó diễn ra không chỉ trên mặt trận quân sự mà cả trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.
Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp - Ảnh 2.
Chiến sĩ ôm bom ba càng Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh
Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16
Mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, quân dân ta chủ đông tiến công quân Pháp, bao vây, giam chân lực lượng chúng ở Thủ đô Hà Nội, các thành phố và các thị xã, tạo thế trận đi vào cuộc chiến đấu lâu dài.
Hà Nội đã mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc. Cuộc chiến đấu đã diễn ra ác liệt giữa ta và địch ở sân bay Bạch Mai, khu Bắc Bộ Phủ, đầu cầu Long Biên, ga Hàng Cỏ, các phố Khâm Thiên, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Da, Hàng Trống...
Đến ngày 17 - 2 - 1947, Trung đoàn Thủ đô (đơn vị chính thức được thành lập trong quá trình chiến đấu) thực hiện cuộc rút quân khỏi vòng vây của địch, ra căn cứ an toàn.
Trong gần hai tháng (từ ngày 19 - 12 - 1946 đến ngày 17 - 2 - 1947), quân dân ta ở Hà Nội đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, thu và phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh, thực hiện được nhiệm vụ giam chân địch ở thành phố để hậu phương kịp thời huy động lực lượng kháng chiến, di chuyển kho tàng, công xưởng về chiến khu, bảo vệ an toàn cho Trung ương Đảng, Chính phủ trở lại căn cứ địa, lãnh đạo kháng chiến lâu dài.
Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp - Ảnh 3.
Nhân dân Hà Nội đem đồ đạc ra lập chiến lũy giữa đường phố
Tai các thành phố Nam Định, Huế, Đà Nẵng..., quân dân ta chủ động tiến công, loại khỏi vòng chiến đấu một số lực lượng của chúng; bao vây, giam chân Pháp suốt trong hai, ba tháng chiến đấu, cuối cùng quân ta chủ động rút khỏi thành phố, lui về căn cứ, tổ chức cuộc chiến đấu lâu dài. Riêng thành phố Vinh, ngay từ đầu cuộc chiến đấu, quân dân ta đã buộc địch đầu hàng.
Phối hợp với cuộc chiến đấu ở các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16, quên dân ta ở các tỉnh phía nam (Nam Bộ và Nam Trung Bộ) đỡ đẩy mạnh chiến tranh du kích, chặn đánh địch trên các tuyến giao thông, phá cơ sở hậu cần của chúng. —
Tích cực chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài
Cuối tháng 10 - 1946, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm nước Pháp trở về, nhất là sau vụ thực dân Pháp gây xung đột ở Hải Phòng và Lạng Sơn (20 – 11 - 1946), công việc chuẩn bị cho kháng chiến ở Hà Nội được đẩy mạnh. Đợt tổng di chuyến bắt đầu, nhằm đưa máy móc, thiết bị, vật liệu, hàng hoá, lương thực, thực phẩm đến nơi an toàn.

Sau khi việc di chuyển đã hoàn thành, Nhà nước bắt tay xây dựng lực lượng về mọi mặt để bước vào cuộc chiến đấu lâu dài.Đồng thời với việc di chuyển, ta tiến hành "tiêu thố kháng chiến", vận động, tổ chức nhân dân tản cư, nhanh chóng chuyển đất nước sang thời chiến.
Về chính trị, Chính phủ quyết định chia nước ta thành 12 khu hành chính và quân sự.
Về quân sự, mọi người dân từ 18 đến 45 tuổi đều tham gia dân quân và từ dân quân được tuyển chọn vào du kích, rồi bộ đội địa phương hoặc bộ đội chủ lực. Vũ khí vừa tự tạo, vừa lấy của địch để tự trang bị.
Về kinh tế, Chính phủ ban hành các chính sách để duy trì và phát triển sản xuất, trước hết là sản xuất lương thực, theo khẩu hiệu "Thực túc binh cường", "Ăn no đánh thắng". Nha Tiếp tế được thành lập, làm nhiệm vụ thu mua, dự trữ và phân phối thóc gạo, muối, vải, bảo đảm nhu cầu về ăn mặc cho lực lượng vũ trang và nhân dân ở hậu phương.
Về giáo dục, phong trào Bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và phát triển.

Cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền sau Cách mạng tháng 8

B.T sưu tầm, SGK Sử 9
Cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền sau Cách mạng tháng 8

Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, thực dân Pháp vẫn chưa chịu bỏ qua “xứ An Nam thuộc địa”. Nhân dân Nam Bộ phải tiếp tục kháng chiến chống Pháp. Cả nước tích cực đấu tranh bảo vệ chính quyền nhân dân.

Nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược
Được sự giúp đỡ của quân Anh, đêm 22 rạng sáng 23 - 9 - 1945, thực dân Pháp đánh úp trụ sở Ủy ban Nhân dân Nam Bộ va cơ quan Tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
Quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn anh dũng đánh trả quân xâm lược bằng mọi hình thức và mọi thứ vũ khí, triệt nguồn tiếp tế của địch trong thành phố, tổng bãi công, bãi thị, bãi khóa, dựng chướng ngại vật và chiến lũy trên khắp đường phố. Mọi loạt nhà máy, kho tàng của địch ở Sài Gòn bị đánh phá. Điện, nước bị cắt. Các chiến sĩ lực lượng vũ trang của ta đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt chày tàu Pháp vừa cập bến Sai Gòn, phá Khám lớn, v.v..
Đầu tháng 10 - 1945, tướng Lơ-clec đến Sài Gòn cùng nhiều đơn vị bộ binh và xe bọc thép mới từ Pháp sang tăng viện. Có sự hỗ trợ của Anh và Nhật, quân Pháp phá vòng vây xung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn, đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Trung ương Đảng, Chính phù và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, đồng thời tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu của Pháp muốn mở rộng chiến tranh ra cả nước. Hàng vạn thanh niên nô nức lên đường nhập ngũ. Nhân dân Bắc Bộ, Trung Bộ thường xuyên tổ chức quyên góp tiền bạc, quần áo, thuốc men... ủng hộ đồng bào Nam Bộ.
Đấu tranh chống quân Tưởng và bọn phản cách mạng
Trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra ngày càng ác liệt, nhân dân ta vẫn phải đối phó với âm mưu và hành động chống phá của 20 vạn quân Tưởng cùng bè lũ tay sai.
Quân Tưởng đã sử dụng bọn Việt Quốc, Việt Cách để phá ta từ bên trong. Dựa vào quân Tưởng, chúng đòi ta phải cải tổ Chính phủ, gạt những đảng viên cộng sản ra khỏi Chính phủ Lâm thời...
Nhằm hạn chế sự phá hoại của bọn tay sai của Tưởng, tại phiên họp đầu tiên, Quốc hội khóa l đồng ý chia cho chúng 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử và một số ghế bộ trưởng trong Chính phủ Liên hiệp chính thức như Bộ Ngoại giao, Bộ Kinh tế, Bộ Xã hội; đồng thời nhân nhượng cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, nhận tiêu tiền "quan kim" và "quốc tệ".
Mặt khác, Chính phủ đã ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng; giam giữ những phần tử chống đối lại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; lập toà án quân sự để trừng trị bọn phản cách mạng v.v...
Sau khi chiếm đóng các đô thị ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, thực dân Pháp chuẩn bị tiến quân ra miền Bắc để thôn tính cả nước ta. Để tránh đụng độ với lực lượng kháng chiến của nhân dân ta, thực dân Pháp kí với Chính phủ Tưởng Giới Thạch Hiệp ước Hoa - Pháp (28 - 2 - 1946). 
Theo Hiệp ước này, quân Tưởng được Pháp trả lại một số quyền lợi trên đất Trung Quốc và được vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng vào Hoa Nam không phải đóng thuế. Ngược lại, Pháp được đưa quân ra miền Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật.
Trước tình hình đó, ta chủ động đàm phán với Pháp, tạm hoà hoãn với chúng để nhanh chóng gạt 20 vạn quân Tưởng về nước và tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng để bước vào cuộc chiến tranh với Pháp sau này.
Cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền sau Cách mạng tháng 8 - Ảnh 1.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp ký Tạm ước Việt – Pháp năm 1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Công hoà kí với đại diện Chính phủ Pháp là Xanh-tơ-ni bản Hiệp định Sơ bộ (6 - 3 - 1946).Theo hiệp định này, Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân dội và tài chính riêng nằm trong khối Liên hiệp Pháp; Chính phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15000 quân Pháp vào miền Bắc thay quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, số quân này sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm; hai bên thực hiện ngừng bắn ngay ở Nam Bộ, tạo không khí thuận lợi cho việc mở cuộc đàm phán chinh thức ở Pa-ri.
Nhưng sau khi kí Hiệp định Sơ bộ, thực dân Pháp vẫn tiếp tục gây xung đột vũ trang ở Nam Bộ, lập Chính phủ Nam Kì tự trị, âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Do sự đấu tranh kiên quyết của ta, cuộc đàm phán chính thức giữa hai chính phủ được tổ chức tại Phông-ten-nơ-blô - nước Pháp. 
Nhưng cuộc đàm phán đã thất bại. Trong khi đó, tại Đông Dương, quân Pháp tăng cường hoạt động khiêu khích. Quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng và có nguy cơ xảy ra chiến tranh.
Trước tình hình trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với Chính phủ Pháp bản Tạm ước ngày 14 - 9 - 1946, tiếp tục nhượng bộ cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hoá ở Việt Nam để có thời gian xây dựng và củng cố lực lượng, chuẩn bị cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhất định sẻ bùng nổ.

Sau thất bại trong chiến dịch Biên giới, Pháp cấu kết với Mỹ để giành lại quyền chủ động

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 
Sau thất bại trong chiến dịch Biên giới, Pháp cấu kết với Mỹ để giành lại quyền chủ động

Được Mỹ tăng cường viện trợ, Pháp tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ba nước Đông Dương. Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định phát triển hậu phương để tiến hành kháng chiến về mọi mặt

Âm mưu đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp
Sau thất bại trong chiến dịch Biên giới, thực dân Pháp thực hiện âm mưu giành lại quyền chủ động chiến lược đã mất. Đế quốc Mĩ tăng cường viện để Pháp đẩy mạnh chiến tranh.
"Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương" ngày 23 – 2 – 1950 là hiệp định viện trợ quân sự, kinh tế - tài chính của Mỹ cho Pháp và bù nhìn, qua đó Mỹ buộc Pháp lệ thuộc vào mình, từng bước thay chân Pháp ở Đông Dương.
Dựa vào viện trợ ngày càng tăng của Mỹ, thực dân Pháp đẩy mạnh hơn nữa chiến tranh xâm lược Đông Dương. Kế hoạch Đờ Lát đờ Tát-xi-nhi được đề ra tháng 12 – 1950 nhằm thực âm mưu đó. Đây là kế hoạch của địch nhằm gấp rút xây dựng lực lượng, bình đình vùng tam chiếm, kết hợp với phản công và tiến công lực lượng cách mạng.
Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2 – 1951)
Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi, tháng 2 – 1951, Đảng Cộng sản Đông Dương họp Đại hội đại biểu lần thứ II tại Chiêm Hóa – Tuyên Quang.
Sau thất bại trong chiến dịch Biên giới, Pháp cấu kết với Mỹ để giành lại quyền chủ động - Ảnh 1.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần II năm 1951
Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày trước Đại hội đã tổng kết kinh nghiệm mấy chục năm vận động cách mạng của Đảng, nêu rõ những nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng toàn quân, toàn dân ta, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi, đồng thời vạch rõ tiền đồ của cách mạng Việt Nam.
Báo cáo chính trị nêu nêu nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là: "Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mĩ, giành thống nhất, độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới".
Bàn về cách mạng Việt Nam nêu nhiệm vụ chống phong kiến phải được thực hiện đồng thời với nhiệm vụ chống đế quốc, nhưng làm từng bước, có kế hoạch để vừa bồi dưỡng lực lượng kháng chiến, vừa giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân kháng chiến.
Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam – Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Đối với Lào và Cam-pu-chia, Đại hội chủ trương xây dựng ở mỗi nước một đảng riêng phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước để lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị của Đảng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Trường Chinh làm Tổng Bí thư.
Đại hội lần thứ II là mốc đánh dấu bước trưởng thành của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng, có tác dụng thúc đẩy cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi.
Phát triển hậu phương kháng chiến về mọi mặt
Về chính trị, ngày 3 - 3 - 1951, Việt Minh và Hội Liên Việt họp Đại hội đại biếu đã quyết định thống nhất hai tổ chức thành một mặt trận duy nhất là Mặt trận Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt). Đảng Lao động Việt Nam chính thức ra mắt trước đại biểu nhân dân tham dự Đại hội.
Sau thất bại trong chiến dịch Biên giới, Pháp cấu kết với Mỹ để giành lại quyền chủ động - Ảnh 2.
Đại hội thống nhất Việt Minh và Hội Liên Việt
Ngày 11 – 3 – 1951, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Khơ-me và Mặt trận Lào đại diện cho nhân dân ba nước họp Hội nghị đại biểu, thành lập "Liên minh nhân dân Việt – Miên – Lào" trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và tôn trọng chủ quyền của nhau.
Trên mặt trận kinh tế, năm 1952, Đảng và Chính phủ đề ra cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đã lôi cuốn mọi người, mọi ngành, mọi giới tham gia.
Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, Đảng và Chính phủ để ra nhiều chính sách nhằm chấn chỉnh chế độ thuế khoá, xây dựng nền tài chính, ngân hàng và thương nghiệp.
Để bồi dưỡng sức dân, trước hết là nông dân, đầu năm 1953 Đảng và Chính phủ quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất. Tháng 12 - 1953, kì họp thứ ba Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua "Luật cải cách ruộng đất" và quyết định tiến hành cải cách ruộng đất ở vùng tự do.
Từ tháng 4 - 1953 đến tháng 7 - 1954, ta thực hiện tất cả 5 đợt giảm tô và đợt l cải cách ruộng đất ở một số xã thuộc vùng tự do.

Về văn hóa giáo dục, cải cách giáo dục đề ra từ tháng 7 - 1950 được tiếp tục thực hiện theo ba phương châm: phục vụ kháng chiến, phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh.Đến cuối năm 1953, tính từ Liên khu IV trở ra, cách mạng đã tạm cấp hơn 18 vạn hécta ruộng đết của thực dân, địa chủ, ruộng đất vắng chủ và ruộng đất bỏ hoang cho nông dân.
Số người đi học và học sinh phổ thông năm 1954 đều tăng so với năm 1950: cấp I – tăng 130%, cấp II và III – tăng 300%. Năm 1954, số sinh viên đại học và trung học chuyên nghiệp là 4247 người. Từ năm 1951 đến năm 1953, ta đào tạo được 7000 cán bộ kĩ thuật; đến năm 1954, ta có 3400 học sinh được gửi đi học nước ngoài.
Phong trào thi đua yêu nước ngày càng ăn sâu và lan rộng trong các ngành, các giới, làm nảy nở nhiều đơn vị, cá nhân ưu tú. Ngày 1 - 5 - 1952, Đại hội Chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ I với 154 cán bộ và chiến sĩ tiêu biểu cho các ngành được khai mạc tại Căn cứ địa Việt Bắc. Đại hội tổng kết, biếu dương thành tích của phong trào thi đua yêu nước và chọn được 7 anh hùng.

Thắng lớn chiến dịch biên giới, quân ta liên tiếp tấn công, phá tan âm mưu của Pháp-Mỹ

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 
Thắng lớn chiến dịch biên giới, quân ta liên tiếp tấn công, phá tan âm mưu của Pháp-Mỹ

Song song với phát triển hậu phương, trên chiến trường quân ta liên tiếp mở nhiều chiến dịch tiến công để giữ thế chủ động đánh thực dân Pháp, quyết phá âm mưu đẩy mạnh chiến tranh của chúng.

Sau chiến thắng Biên giới thu - đông 1950, quân ta liên tiếp mở những chiến dịch tiến công vào phòng tuyến của địch ở chiến trường vùng rừng núi, trung du và đồng bằng, nhắm phá âm mưu đẩy manh chiến tranh của Pháp – Mỹ, giữ vững quyền chủ động đánh địch.
Trên chiến trường trung du và đồng bắng, trong đông – xuân 1950 – 1951. quân ta mở ba chiến dịch: chiến dịch Trung du (Trần Hưng Đạo) đánh địch ở Vĩnh Yên, Phúc Yên; chiến dịch Đường số 18 (Hoàng Hoa Thám) đánh địch trên Đường số 18 từ Phả Lại đi Uông Bí; chiến dịch Hà – Nam – Ninh (Quang Trung) đánh địch ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.
Trong ba chiến dịch, quân ta đã loại khỏi vòng chiến đáu hơn 1 vạn tên địch, tiêu diệt nhiều cứ điểm quan trọng của chúng.
Sau khi rút kinh nghiệm ba chiến dịch mở ra ở vùng trung du và đồng bằng – là những chiến trường có lợi cho địch, ta chủ trương chỉ mở các chiến dịch tiến công tiếp sau ở vùng rừng núi – là chiến trường có lợi cho ta.
Từ ngày 9 đến ngày 14 – 11 – 1951, Đơ Lát đờ Tát-xi-nhi tập trung 20 tiểu đoàn bộ binh, có pháo binh, cơ giới, máy bay phối hợp đánh chiếm Hoà Bình, nhằm giành lại quyền chủ động đã mất trên chiến trường Bắc Bộ, nối lại "Hành lang Đông – Tây", chia cắt Căn cứ địa Việt Bắc với Liên khu III và Liên khu IV.Ngòy 10 - 11, Pháp cho quân nhảy dù xuống Xuôn Mai, Chợ Bến (Hòa Bình), hai cánh quân thuỷ và bộ có máy bay yểm trợ, theo sông Đà và Đường số 6 tiến vào thị xã Hoà Bình.
Thực dân Pháp tập trung lực lượng đánh Hoà Bình, nên chúng phải rút bớt quân ở đồng bằng, đó là cơ hội tốt để ta đánh địch. Ta vừa cho quân bao vây, truy kích tiêu điệt địch trên mặt trận Hoà Bình, vừa đẩy mạnh hoạt động chống phá kế hoạch bình định đồng bằng Bắc Bộ của chúng, thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch, buộc chúng phải rút khỏi Hoà Bình, kết thúc chiến dịch vào ngày 23 - 2 - 1952.
Tiếp tục thực hiện phương châm "đánh chắc thắng" và phương hướng chiến lược "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu", bộ đội ta chuyển hướng tiến công địch trên chiến trường rừng núi, mở chiến dịch đánh địch ở Tây Bắc, nhằm tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng đất đai và nhân dân, mở rộng căn cứ địa kháng chiến, phát triển chiến tranh du kích.
Thắng lớn chiến dịch biên giới, quân ta liên tiếp tấn công, phá tan âm mưu của Pháp-Mỹ - Ảnh 2.
Lược đồ chiến dịch Tây Bắc
Mở đầu chiến dịch, ngày 14 – 10 – 1953 quân ta tiến công địch ở Nghĩa Lộ; tiếp đó đánh vào Lai Châu, Sơn La và Yên Bái
Sau hơn hai tháng chiến đấu (từ giữa tháng 10 đến cuối tháng 2 - 1952), ta đã giải phóng toàn tỉnh Nghĩa Lộ, hầu hết tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), bốn huyện thuộc Lai Châu, hai huyện thuộc Yên Bái, với 25 vạn dân. Phá âm mưu lập "xứ Thái tự trị" của địch.
Đầu năm 1953, Trung ương Đảng và Chính phủ ta cùng với Chính phủ kháng chiến Lào và Mặt trận Ít-xa-la của Lào thỏa thuận mở chiến dịch Thượng Lào, nhắm tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng đất đai và nhân dân, mở rộng căn cứ du kích, đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân Lào. Ngày 8 – 4 – 1953, chiến dịch bắt đầu.
Thắng lớn chiến dịch biên giới, quân ta liên tiếp tấn công, phá tan âm mưu của Pháp-Mỹ - Ảnh 3.
Lược đồ chiến dịch Thượng Lào
Sau gần 1 tháng chiến đấu, Liên quân Việt – Lào giải phóng toàn tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa-lì với 30 vạn dân. Căn cứ kháng chiến ở Thượng Lào dược mở rộng, nối liền với Tây Bắc Việt Nam, tạo thế mới để uy hiếp địch.

Pháp lập "Hành lang Đông - Tây" để cô lập Việt Bắc nhưng lại lần nữa thất bại ê chề

B.T sưu tầm, SGK Sử 9
Pháp lập "Hành lang Đông - Tây" để cô lập Việt Bắc nhưng lại lần nữa thất bại ê chề

Bị thất bại trên khắp các chiến trường Việt Nam và Đông Dương nên thực dân Pháp ngày càng lệ thuộc vào đế quốc Mĩ. Lợi dụng tình hình đó, Mĩ can thiệp sâu và "dính líu trực tiếp" vào cuộc chiến tranh Đông Dương.

Hoàn cảnh lịch sử mới
Sau chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947 và Cách mạng Trung Quốc thắng lợi (1-10-1949), tình hình Đông Dương và thế giới thay đổi có lợi cho cuộc kháng chiến của chúng ta, không có lợi cho thực dân Pháp.
Bị thất bại trên khắp các chiến trường Việt Nam và Đông Dương nên thực dân Pháp ngày càng lệ thuộc vào đế quốc Mĩ. Lợi dụng tình hình đó, Mĩ can thiệp sâu và "dính líu trực tiếp" vào cuộc chiến tranh Đông Dương.
Pháp lập Hành lang Đông - Tây để cô lập Việt Bắc nhưng lại lần nữa thất bại ê chề - Ảnh 1.
Liên tiếp thất bại khiến quân Pháp ngày càng phải dựa vào viện trợ của Mĩ
Quân ta tiến công địch ở biên giới phía Bắc
Với viện trợ về tài chính và quân sự của Mĩ, thực dân Pháp đã thực hiện "Kết hoạch Rơ-ve", nhằm "khóa cửa biên giới Việt-Trung" bằng cách tăng cường hệ thống phòng ngự trên Đường số 4 và "cô lập căn cứ Việt Bắc" với đồng bằng Liên Khu III và Liên Khu IV, thiến lập "Hành lang Đông – Tây" (Hải Phòng-Hà Nội-Hòa Bình-Sơn La). Trên cơ sở đó, chúng chuẩn bị một kế hoạch có quy mô lớn nhằm tiến công Căn cứ địa Việt Bắc lần thứ hai.
Pháp lập Hành lang Đông - Tây để cô lập Việt Bắc nhưng lại lần nữa thất bại ê chề - Ảnh 2.
Lược đồ chiến dịch Biên giới 1950
Để phá âm mưu đó, tháng 6 -1950 Trung ương Đảng và Chính phủ ta quyết định định mở chiến dịch Biên giới, nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng địch, khai thông con đường liên lạc quốc tế giữa nước ta và Trung Quốc với các nước dân chủ trên thế giới, mở rộng và củng cố Căn cứ địa Việt Bắc, tạo điều kiện đẩy mạnh công cuộc kháng chiến
Với lực lượng áp đảo, quân ta tiêu diệt Đông Khê (sáng 18-9), uy hiếp Thất Khê, thị xã Cao Bằng bị cô lập; hệ thống phòng ngự của địch trên Đường số 4 bị lung lay.
Quân Pháp ở Cao Bằng được lệnh rút theo Đường số 4, đồng thời lực lượng của chúng ở Thất Khê cũng được lệnh tiến đánh Đông Khê để đóng cánh quân từ Cao Bằng xuống, rồi cùng rút về xuôi.
Pháp lập Hành lang Đông - Tây để cô lập Việt Bắc nhưng lại lần nữa thất bại ê chề - Ảnh 3.
Bác Hồ với các chiến sĩ

Phối hợp với mặt trận Biên giới,quân ta hoạt đọng mạnh ở tả ngạn sông Hồng, ở Tây Bắc và trên Đường số 6, buộc Pháp phải rút khỏi thị xã Hòa Bình. Phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh ở Bình-Trị-Thiên, Liên khu V và Nam Bộ.Đoán trước ý định của địch, quân ta mai phục chặn đánh trên Đường số 4, hai cánh quân Cao Bằng và Thất Khê bị thiệt hại nặng nên không liên lạc được với nhau. Đến lượt Thất Khê bị uy hiếp, quân Pháp buộc phải rút về Na Sầm, rồi Lạng Sơn và đến ngày 22-10 thì rút khỏi Đường số 4.
Sau hơn một tháng chiến đấu trên mặt trận Biên giới (từ ngày 16-9 đến 22-10-1950), quân ta đã giải phóng vùng biên giới Việt-Trung, từ Cao Bằng đến Đình Lập với 35 vạn dân. "Hành lang Đông – Tây" bị chọc thủng ở Hòa Bình. Thế bao vây cả trong lẫn ngoài của địch đối với Căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Kế hoạch Rơ-ve của Pháp bị phá sản.

Thất bại liên miên, Pháp quyết chơi "tất tay" khi tăng thêm 12 tiểu đoàn

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 
Thất bại liên miên, Pháp quyết chơi "tất tay" khi tăng thêm 12 tiểu đoàn

Pháp tăng thêm ở Đông Dương 12 tiểu đoàn bộ binh, tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ một lực lượng cơ động mạnh gồm 44 tiểu đoàn, ra sức tăng cường ngụy quân.

Kế hoạch Na-va của Pháp và Mĩ
Ngày 1-5-1953, Tướng Na-va được cửa làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, vạch ra kế hoạch quân sự nhằm xoay chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương, với hi vọng trong vòng 18 tháng "kết thúc chiến tranh trong danh dự".
Thất bại liên miên, Pháp quyết chơi tất tay khi tăng thêm 12 tiểu đoàn - Ảnh 1.
Tướng Na-va được cử làm Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương
Kế hoạch Na-va được thực hiện theo hai bước
Bước một: Trong thu-đông 1953 và xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược trên chiến trường miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược để "bình định" miền Trung và miền Nam Đông Đương.
Bước hai: Từ thu-đông 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược, giành thắng lợi quân sự quyết định, "kết thúc chiến tranh"
Thực hiện Kế hoạch Na-va, thực dân Pháp xin Mĩ tăng thêm viện trợ quân sự (gấp hai lần so với trước, chiếm tới 73% chi phí chiến tranh ở Đông Dương), tăng thêm ở Đông Dương 12 tiểu đoàn bộ binh, tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ một lực lượng cơ động mạnh gồm 44 tiểu đoàn (trong số 84 tiểu đoàn trên toàn Đông Dương), ra sức tăng cường ngụy quân.
Cuộc tiến công chiến lược Đông –Xuân 1953-1954
Tháng 9-1953, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp đề ra kết hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-1954 với quyết tâm giữ vững quyền chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch.

Phương châm chiến lược của ta là "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt:, "đánh ăn chắc, đánh chắc thắng".Phương hướng chiến lược của ta là tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yêu, nhằm "tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ, tạo cho ta những điều kiện thuận lợi để tiêu diệt thêm sinh lực của chúng.
Thực hiện phương hướng chiến lược trên, trnog cuộc tiến công Đông-Xuân-1953-1954, quân ta mở một loạt chiến dịch tiến công địch trên nhiều hướng ở hầu khắp các chiến trường Đông Dương.
Ngày 20-11-1953 phát hiện bộ đội chủ lực của ta di chuyển lên Tây Bắc. Na-va cho 6 tiểu đoàn Âu-Phi nhảy dù xuống Điện Biên Phủ.
Đầu tháng 12-1953, bộ đội chủ lực của ta ở Tây Bắc tổ chức một bộ phận bao vây, uy hiếp địch ở Điện Biên Phủ; bộ phận còn lại mở cuộc tiến công địch, giải phóng toàn tỉnh Lai Châu (trừ Điện Biên Phủ). Na-va buộc phải đưa 6 tiểu đoàn cơ động từ đồng bằng Bắc Bố lên tăng cường. Như vạy, sau đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung quân thứ hai của địch.
Thất bại liên miên, Pháp quyết chơi tất tay khi tăng thêm 12 tiểu đoàn - Ảnh 3.
Lược đồ chiến lược Đông-Xuân 1953-1954
Cũng vào đầu tháng 12-1953, liên quân Việt-Lào mở cuộc tiến công địch ở Trung Lào, giải phóng toàn tiẻnh Thà Khẹt, đồng thời bao vây, uy hiếp Xê-nô. Na-va tăng cường lực lượng cho Xê-nô và Xê-nô thành nơi tập trung quân thứ ba của địch.
Cuối tháng 1-1954, để đánh lạc lướng phán đoán của địch, tạo điều kiện đẩy mạng công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, quân ta phối hợp với quân Pa-thét Lào mở cuộc tiến công địch ở Thượng Lào, giải phóng toàn tỉnh Phong-Xa-Lì, mở rộng vùng giải phóng Lào. Lo sợ liên quân Việt – Lào thừa thắng đánh xuống Luông-Pha-Bang, Na-va cho tăng cường lực lượng để Luông-Pha-Bang trở thành nơi tập trung quân thứ tư của địch.
Ngày 20-1-1954, Na-va tập trung 20 tiểu đoàn bộ binh mở chiến dịch Át-lăng đánh chiếm Tuy Hòa (Phú Yên), mở rộng đánh chiếm vùng tư do Liên khu V của ta.
Thất bại liên miên, Pháp quyết chơi tất tay khi tăng thêm 12 tiểu đoàn - Ảnh 4.
Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh bàn triển khai Kế hoạch tác chiến Chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954.
Giữ vững quyền chủ động đánh địch, đầu tháng 2-1954, quân ta mở cuộc tiến công địch ở Bắc Tây Nguyên, giải phóng toàn tỉnh Kon-Tum, đồng thời bao vây uy hiếp Plây-Cu. Na-va buộc phải bỏ dở cuộc tiến công Tuy Hòa để tăng cường lực lượng cho Plây-Cu và Plây-Cu trở thành nơi tập trung quân thứ năm của địch.
Phối hợp chặt chẽ với mặt trận chính diện, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh ở vùng sau lưng địch, bộ đội ta ở Nam Bộ, Nam Trung bộ, Bình -Trị-Thiên, đồng bằng Bắc Bộ cũng đẩy mạnh hoạt động đánh địch.
Thất bại liên miên, Pháp quyết chơi tất tay khi tăng thêm 12 tiểu đoàn - Ảnh 5.
Quân Pháp ở Đông Dương đã lộ rõ dấu hiệu thất bại
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của ta đã làm phá sản bước đầu Kế hoạch Na-va của Pháp-Mĩ, buộc quân chủ lực của chúng phải bị động phân tán và giam chân ở miền rừng núi.

Quyết chiến ở Điện Biên Phủ, quân ta làm nên chiến thắng chấn động địa cầu

B.T sưu tầm, SGK Sử 9
Quyết chiến ở Điện Biên Phủ, quân ta làm nên chiến thắng chấn động địa cầu

Đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào.

Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn, nằm ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới với Lào, có vị trí chiến lược quan trọng.
Quyết chiến ở Điện Biên Phủ, quân ta làm nên chiến thắng chấn động địa cầu - Ảnh 1.
Quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ
Được Mĩ giúp đỡ, Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương. Lực lượng địch ở đây lúc cao nhất là 16200 quân, được bố trí làm 49 cứ điểm, chia thành ba phân khu: phân khu Trung tâm có sở chỉ huy và sân bay Mường Thanh, phân khu Bắc và phân khu Nam.
Na-va và nhiều nhà quân sự Phá-Mĩ đánh giá Điện Biên Phủ là "pháo đài bất khả xâm phạm", và từ ngày 3-12-1953, chúng quyết định giao chiến với quân ta tại Điện Biên Phủ.
Đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào.
Chiến dịch bắt đầu từ 13-3-1954 đến hết 7-5-1954 và được chia làm 3 đợt:
Đợt 1, quân ta tiến công tiêu diệt căn cứ Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc.
Đợt 2, quân ta tiến công và tiêu diệt các căn cứ phí đông phân khu Trung tâm.
Đợt 3, quân ta đồng loạt tiến công tiêu diệt các căn cứ còn lại ở phân khu Trung Tâm và phân khu Nam. Chiều 7-5, quân ta đánh vào sở chỉ huy địch. 17 giờ 30 phút ngày 7-5, Tướng Đờ-Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ Ban tham mưu của địch ra đầu hàng.
Quyết chiến ở Điện Biên Phủ, quân ta làm nên chiến thắng chấn động địa cầu - Ảnh 2.
Quân ta giương cờ chiến thắng trên nóc hầm chỉ huy của Pháp (Ảnh: vov.vn)
Trong cùng thời gian, trên các chiến trường toàn quốc, quân ta đẩy mạnh chiến đấu, tiêu diệt, giam chân phân tán lực lượng địch, tạo điều kiện cho Điện Biên Phủ giành toàn thắng.
Trong toàn bộ cuộc tiến công chiến lượng Đông-Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, quân ta đã giải phóng nhiều vùng đông dân ở các đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ.
Riêng tại mặt trận Điện Biên phủ, trong gần hai tháng chiến đấu, quân ta tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm của dịch, loại khỏi vòng chiến dấu 16200 tên địch (có 1 thiếu tướng), phá hủy và thu toàn bộ phương tiện chiến tranh, bắn rơi và bắn cháy 62 máy bay các loại.
Quyết chiến ở Điện Biên Phủ, quân ta làm nên chiến thắng chấn động địa cầu - Ảnh 3.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong một lần thăm lại chiến trường Điện Biên Phủ
Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương (1954)
Bước vào Đông-Xuân 1953-1954, đồng thời với mặt trận quân sự, ta còn tiến công địch trên mặt trận ngoại giao
Ngày 26-11-153, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố :..nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng hình thức thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó".
Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương chính thức khai mạc ngày 8-5-195 bắt đầu thảo luận về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Quyết chiến ở Điện Biên Phủ, quân ta làm nên chiến thắng chấn động địa cầu - Ảnh 4.
Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954
Tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương, gồm có Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Cộng hòa Nhân dân Trung hoa và các nước có liên quan đến Đông Dương. Phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn.
Cuộc đấu tranh trên bàn Hội nghị diễn ra gay gắt và phức tạp do lập trường ngoan cố của Pháp và Mĩ. Lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chấm dứt chiến tranh trên toàn Đông Dương, giải quyết vấn đề quân sự và chính trị cùng một lúc cho cả ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương
Căn cứ vào điều kiện cụ thể cuộc kháng chiến của ta, cũng như so sánh lực lượng giữa ta và Pháp trong chiến tranh và xu thế chung của thế giới là giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kì Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 21-7-1954.
Nội dung Hiệp định gồm các điều khoản cơ bản sau:
Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền độc lập cơ bản của ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia là độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Hai bên tham chiến (lực lượng kháng chiến ở các nước Đông Dương và lực lượng xâm lược Pháp) ngừng bắn , lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương .
Hai bên tham chiến thực hiện di chuyển, tập kết quân đội ở hai vùng ; Quân đội cách mạng Việt Nam và quân đội xâm lược Pháp tập kết ở hai miền Bắc và Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh rới quân sự tạm thời
Việt Nam sẽ thống nhất bằng một cuộc tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ủy ban quốc tế.
Hiệp định Giơ-ne-vơ cùng với chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ ở Việt Nam, Lào, Campuchia.
Hiệp định Giơ-ne-vơ là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông Dương và được các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng.
Với Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương, Pháp buộc phải rút hết quân dội về nước; Mĩ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở rộng, quốc tế hóa chiến tranh xâm lược Đông Dương; miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giải đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp
Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược. Đồng thời chấm dứt ách thống trị thực dân Pháp trong gần một thế kỉ trên đất nước ta; miền Bắc nước ta được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để nhân dân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính trị, quân sự và đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo.Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc các nước châu Á, châu Phi và Mĩ Latinh.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược được tiến hành trong điều kiện hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, mặt trận dân tộc thống nhất được cũng cố và mở rộng, lực lượng vũ trang ba thứ quân sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta cùng với cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước Lào và Campuchia được tiến hành trong liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước chống kẻ thù chung, có sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và câc nước dân chủ nhân dân, của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ.

Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị cho miền Nam kháng chiến

B.T sưu tầm SGK Sử 9 
Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị cho miền Nam kháng chiến

Sau khi hòa bình được tạo lập lại trên miền Bắc, từ năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc bắt đầu thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược và chính quyền Sài Gòn

Tình hình nước ta sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương
Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương được kí kết chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đối với ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia.
Theo Hiệp định, quân đội hai bên phải ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực. Những điều khoản này sẽ được hai bên thực hiện trong thời gian 300 ngày: Pháp rút khỏi Hà Nội ngày 10 - 10 - 1954, rút khỏi miền Bắc giữa tháng 5 - 1955.
Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị cho miền Nam kháng chiến - Ảnh 1.
Đồng bào Hà Nội chào đón bộ độ ta về tiếp quản thủ đô tháng 10 - 1954
Nhưng hội nghị hiệp thương giữa hai miền Nam và Bắc để tổ chức Tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước chưa được tiến hành.
Pháp rút khỏi miền Nam, Mĩ liền nhảy vào và đưa bọn tay sai (đứng đầu là Ngô Đình Diệm) lên nắm chính quyền ở miền Nam, thực hiện âm mưu chia cắt Việt Nam làm hai miền, biến Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất (1954 - 1960)
Hoàn thành cải cách ruộng đất
Qua 5 đợt cải cách ruộng đất (tiến hành từ cuối năm 1953 đến năm 1956), có khoảng 81 vạn hecta ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 1,8 triệu nông cụ lấy từ tay giai cấp địa chủ chia cho hơn 2 triệu hộ nông dân. Khẩu hiệu "Người cày có ruộng" đã trở thành hiện thực. Giai cấp địa chủ phong kiến bị đánh đổ. Giai cấp nông dân được giải phóng, trở thành người chủ ở nông thôn.
Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị cho miền Nam kháng chiến - Ảnh 2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm một gia đình nông dân ở Bắc Giang năm 1955
Trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, chúng ta đã phạm một số sai lầm như đấu tố cả những địa chủ kháng chiến, những người thuộc tầng lớp trên có công với cách mạng; quy nhầm một số nông dân, cán bộ, bộ đội, đảng viên thành địa chủ.
Sai lầm trong cải cách ruộng đất được Đảng và Chính phủ phát hiện và có chủ trương, biện pháp sửa sai ngay khi kết thúc cải cách. Nhờ đó mà hậu quả được hạn chế và ý nghĩa của cải cách vẫn hết sức to lớn.
Sau cải cách ruộng đất, bộ mặt nông thôn miền Bắc đã thay đổi cơ bản, giai cấp địa chủ phong kiến bị đánh đổ, khối công nông liên minh được củng cố. Thắng lợi của cải cách ruộng đất góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.
Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh
Về nông nghiệp, nông dân hăng hái khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, cày cấy hết ruộng đất vắng chủ, tăng thêm đàn trâu bò, sắm thêm nông cụ. Nhiều đập nước (như Bái Thượng ở Thanh Hóa, Đô Lương ở Nghệ An, Thác Huống ở Thái Nguyên…), nhiều đê điều bị địch phá được sửa chữa. Đến cuối năm 1957, sản lượng nông nghiệp tăng vượt mức trước Chiến tranh thế giới thứ hai, nạn đói có tính chất kinh niên được giải quyết về cơ bản.
Về công nghiệp, giai cấp công nhân với tinh thần dựa vào sức mình là chính đã nhanh chóng khôi phục và mở rộng hầu hết các cơ sở công nghiệp quan trọng như mỏ than Hòn Gai, nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy điện Hà Nội…; xây dựng thêm nhiều nhà máy như nhà máy cơ khí Hà Nội, diêm Thống Nhất, gỗ Cầu Đuống, thuốc lá Thăng Long, cá hộp Hải Phòng, chè Phú Thọ… 
Đến cuối năm 1957, miền Bắc có tất cả 97 nhà máy, xí nghiệp do Nhà nước quản lý.
Về thủ công nghiệp, có nhiều mặt hàng tiêu dùng được sản xuất thêm, bảo đảm nhu cầu tối thiểu của đời sống, giải quyết phần nào việc làm cho người lao động. Đến cuối năm 1957, số thợ thủ công miền Bắc tăng gấp hai lần so với trước Chiến tranh thế giới thứ hai.
Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị cho miền Nam kháng chiến - Ảnh 3.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phó Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng
Về thương nghiệp, hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán được mở rộng, đã cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng cho nhân dân; giao lưu hàng hóa giữa các địa phương ngày càng phát triển; hoạt động ngoại thương dần dần tập trung vào tay Nhà nước. Đến cuối năm 1957, miền Bắc đặt quan hệ buôn bán với 27 nước.
Về giao thông vận tải, gần 700 km đường sắt bị phá được khôi phục; sửa chữa và làm mới hàng nghìn km đường ô tô; xây dựng lại và mở rộng thêm nhiều bến cảng như Hải Phòng, Hòn Gai, Cẩm Phả, Bến Thủy. Đường hàng không dân dụng quốc tế được khai thông.
Cải tạo quan hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế - văn hóa (1958 - 1960)
Trong ba năm tiếp theo (1958 - 1960), miền Bắc tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh nhằm vận động những nông dân cá thể, những thợ thủ công, những thương nhân và nhà tư sản tham gia lao động tập thể trong các hợp tác xã, quốc doanh hoặc công tư hợp doanh. Khâu chính là hợp tác hóa nông nghiệp.
Kết quả cải tạo là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, nhất là trong điều kiện chiến tranh. Hợp tác xã đã đảm bảo đời sống cho nhân dân lao động, tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho những người ra đi chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Đồng thời với cải tạo, miền Bắc thực hiện nhiệm vụ sản xuất, xây dựng, phát triển kinh tế - văn hóa. Trong phát triển kinh tế, trọng tâm là phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, miền Bắc đạt được thành tựu đáng kể như đã xây dựng thêm nhiều nhà máy, xí nghiệp, nông trường. Trong cải tạo, chúng ta đã phạm một số sai lầm như đã đồng nhất cải tạo với xóa bỏ tư hữu và các thành phần kinh tế cá thể; thực hiện sai các nguyên tắc xây dựng hợp tác xã là tự nguyện, công bằng, dân chủ, cùng có lợi. Do đó, không làm cho hợp tác xã phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của xã viên trong sản xuất.
Nhà máy gang thép Thái Nguyên là cơ sở luyện kim đầu tiên ở miền Bắc được xây dựng trong thời kỳ này. Đến cuối năm 1960, miền Bắc có 172 cơ sở công nghiệp lớn do Trung ương quản lý và 500 cơ sở do địa phương quản lý.
Những tiến bộ về mặt kinh tế đã tạo điều kiện cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế phát triển. Đến cuối năm 1960, miền Bắc đã căn bản xóa xong nạn mù chữ ở miền xuôi cho những người dưới 50 tuổi. Hệ thống giáo dục phổ thông được hoàn chỉnh và mở rộng với số học sinh tăng 80% so với năm 1957. 
Miền Bắc có tất cả 9 trường đại học với hơn 11000 sinh viên (gấp hai lần so với năm 1957). Cơ sở y tế tăng hơn 11 lần so với năm 1955.

Tranh thủ hòa bình lập lại, miền Bắc đẩy mạnh phát triển kinh tế

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 
Tranh thủ hòa bình lập lại, miền Bắc đẩy mạnh phát triển kinh tế

Trong việc thực hiện mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, cách mạng mỗi miền có vị trí, vai trò riêng. 

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960)
Giữa lúc miền Bắc đang giành thắng lợi to lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ cải tạo và phát triển kinh tế, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có bước phát triển nhảy vọt với phong trào "Đồng khởi", thì vào tháng 9 - 1960, Đảng Lao động Việt Nam họp Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III tại Thủ đô Hà Nội.
Sau khi phân tích đặc điểm tình hình đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền dưới hai chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình bày trước Đại hội đã xác định nhiệm vụ của cách mạng từng miền Bắc - Nam : miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. 
Trong việc thực hiện mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, cách mạng mỗi miền có vị trí, vai trò riêng.
Tranh thủ hòa bình lập lại, miền Bắc đẩy mạnh phát triển kinh tế - Ảnh 1.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bí thư thứ nhất Lê Duẩn (bên trái) tại Đại hội Đảng lần thứ 3
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mĩ và tay sai. 
Đại hội đề ra đường lối chung của cả thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cụ thể hóa đường lối đó trong kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965), nhằm "thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ; đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa".
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị của Đảng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất.
Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961-1965)
Miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm, nhằm tạo dựng bước đầu cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước tăng đầu tư vốn cho xây dựng kinh tế gấp ba lần so với thời kì khôi phục kinh tế.
Công nghiệp được Nhà nước ưu tiên đầu tư vốn để phát triển. Trong công nghiệp nặng, có khu gang thép Thái Nguyên, các nhà máy nhiệt điện Uông Bí, thủy điện Thác Bà, phân đạm Bắc Giang, supe phốt phát Lâm Thao... Trong công nghiệp nhẹ, có các khu công nghiệp Việt Trì, Thượng Đỉnh (Hà Nội), các nhà máy đường Vạn Điếm, sứ Hải Dương, pin Văn Điển, dệt 8-3, dệt kim đồng - Xuân... 
Công nghiệp quốc doanh chiếm tỉ trọng 93,1 % trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn miền Bắc, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân ở địa phương, có hàng trăm xí nghiệp công nghiệp được xây dựng để hỗ trợ cho công nghiệp trung ương và giải quyết nhu cầu tại chỗ.
Tranh thủ hòa bình lập lại, miền Bắc đẩy mạnh phát triển kinh tế - Ảnh 2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm nhà máy dệt 8-3 vào năm 1965
Nông nghiệp được coi là cơ sở của công nghiệp. Nhà nước ưu tiên xây dựng và phát triển các nông trường, lâm trường quốc doanh, trại thí nghiệm cây trồng và vật nuôi... Người nông dân mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học - kĩ thuật.
Tỉ lệ sử dụng cơ khí trong nông nghiệp tăng lên. Diện tích nước tưới được mở rộng nhờ phát triển hệ thống thủy nông vừa và nhỏ. Nhiều hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn thóc trên 1 hécta. Trên 90% hộ nông dân vào hợp tác xã, trong đó 50% hộ vào hợp tác xã bậc cao.
Thương nghiệp quốc doanh được Nhà nước ưu tiên phát triển nên đã chiếm lĩnh được thị trường, góp phần vào phát triển kinh tế, củng cố quan hệ sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Trong giao thông vận tải, các mạng lưới đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển được xây dựng, củng cố, hoàn thiện, đã phục vụ đắc lực cho yêu cầu giao lưu kinh tế và củng cố quốc phòng.

Miền Bắc còn làm nghĩa vụ hậu phương, chi viện cho miền Nam. Trong 5 năm ( 1961 - 1965), một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, thuốc men... được chuyển vào chiến trường. Ngày càng có nhiều đơn vị vũ trang, nhiều cán bộ quân sự, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế được huấn luyện đưa vào chiến trường tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng vùng giải phóng.Các ngành văn hoá, giáo dục, y tế có bước phát triển và tiến bộ đáng kể. Vấn đề văn hoá - tư tưởng, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa được đặc biệt coi trọng. Về giáo dục, so với năm học 1960 - 1961, số học sinh phổ thông năm học 1964 - 1965 tăng từ 1.9 triệu lên 2,7 triệu, số sinh viên đại học tăng từ 17 000 lên 27 000. Ngành y tế mở rộng mạng lưới đến tận huyện, xã.
Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm đã làm thay đổi bộ mặt xã hội miền Bắc. Tại Hội nghị Chính trị đặc biệt (3 - 1964). Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định : ‘‘Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới".
Kế hoạch 5 năm (1961 - 1965) đang được thực hiện có kết quả thì ngày 7 - 2 - 1965, Mĩ chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trên toàn bộ lãnh thổ miền Bắc nước ta. Miền Bắc phải chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với điều kiện thời chiến

Mĩ triển khai "Chiến tranh đặc biệt", lực lượng quân đội Sài Gòn tăng lên 560.000 người

B.T sưu tầm, SGK Sử 9
Mĩ triển khai "Chiến tranh đặc biệt", lực lượng quân đội Sài Gòn tăng lên 560.000 người

Lực lượng quân đội Sài Gòn cũng tăng nhanh từ 170 000 người (giữa năm 1961) đến 560 000 người (cuối năm 1964), được trang bị hiện đại, sử dụng phổ biến chiến thuật mới như "trực thăng vận", "thiết xa vận".

Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của  ở miền Nam
Sau thất bại trong phong trào "Đồng khởi'’ (1959 - 1960) ở miền Nam. Mĩ chuyển sang chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", một chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ được tiến hành bằng quân đội tay sai do "cố vấn" Mĩ chỉ huy, đưa vào vũ khí, trang bị kĩ thuật, phương tiện chiến tranh của Mĩ.
Lực lượng quân đội Sài Gòn cũng tăng nhanh từ 170 000 người (giữa năm 1961) đến 560 000 người (cuối năm 1964), được trang bị hiện đại, sử dụng phổ biến chiến thuật mới như "trực thăng vận", "thiết xa vận".
Mĩ triển khai Chiến tranh đặc biệt, lực lượng quân đội Sài Gòn tăng lên 560.000 người - Ảnh 1.
Mỹ và quân đội tay sai đổ quân bằng chiến thuật trực thăng vận
Được sự hỗ trợ chiến đấu và chỉ huy bằng hệ thống cố vấn của Mĩ, quân đội Sài Gòn mở những cuộc hành quân càn quét tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiến hành hoạt động gom dân, lập "ấp chiến lược", đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các ấp, tách dân khỏi cách mạng, tiến tới nắm dân. "bình định" miền Nam.
Chúng dự định dồn 10 triệu dân vào 16 000 ấp chiến lược (trong tổng số 17 000 ấp toàn miền Nam) bằng những thủ đoạn cưỡng bức trắng trợn. Mĩ và chính quyền Sài Gòn còn tiến hành hoạt động phá hoại miền Bắc, phong trào biên giới, vùng biển nhằm ngăn chặn sự thâm nhập từ ngoài vào miền Nam.
Chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mĩ
Dưới ngọn cờ cứu nước của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam do Đảng lãnh đạo, quân giải phóng miền Nam cùng nhân dân đẩy mạnh đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nổi dậy với tiến công trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị) bằng cả ba mũi chính trị, quân sự và binh vận.
Năm 1962, quân giải phóng cùng với nhân dân đánh bại nhiều cuộc hành quân càn quét của quân đội Sài Gòn đánh vào chiến khu, căn cứ U Minh, Tây Ninh...
Trên mặt trận chống phá "bình định", ta và địch đấu tranh giằng co giữa lập và phá "ấp chiến lược".
Đến giữa năm 1963, mặc dù Mĩ và chính quyền Sài Gòn đã huy động gần như toàn bộ lực lượng tiến hành càn quét, nhưng cũng chỉ lập đuợc non nửa số ấp dự kiến (khoảng 7500 ấp). Số ấp lập được đó bị ta phá đi, phá lại nhiều lần, hoặc bị ta biến thành làng chiến đấu ; đến cuối năm 1964 - đầu năm 1965, chỉ còn lại 1/3.
Mĩ triển khai Chiến tranh đặc biệt, lực lượng quân đội Sài Gòn tăng lên 560.000 người - Ảnh 2.
Ảnh chụp một Ấp Chiến Lược ở Miền Nam do Mĩ tạo ra để tách dân khỏi cách mạng
Bước vào năm thứ ba của cuộc chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", quân dân ta ở miền Nam giành thắng lợi vang dội trong trận Ấp Bắc Mĩ Tho) ngày 2 - 1 - 1963.

Ở đô thị, ngày 8 - 5 - 1963, hai vạn tăng ni Phật tử Huế biểu tình phản đối việc chính quyền Sài Gòn cấm treo cờ Phật. Ngô Đình Diệm ra lệnh đàn áp, làm hàng chục Phật tử chết và bị thương. Một làn sóng ủng hộ phong trào Phật tử Huế lan nhanh ra cả nước, mạnh nhất ở Sài Gòn.Tại đây, lần đầu tiên với số quân ít hơn địch 10 lần, quân giải phóng cùng với nhân dân đánh bại cuộc hành quân càn quét của trên 2000 quân Sài Gòn có cố vấn Mĩ chỉ huy. Chiến thắng Ấp Bắc không định khả năng quân dân miền Nam có thể đánh bại hoàn toàn chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mĩ. Sau trận Ấp Bắc trên khắp miền Nam dấy lên phong trào "Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công".
Ngày 11 - 6 - 1963, ngay trên đường phố Sài Gòn, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính quyền Diệm, gây xúc động mạnh trong nhân dân. Ngay 16 - 6 - 1963, một cuộc biểu tình lớn của 70 vạn quần chúng Sài Gòn làm rung chuyển chế độ Sài Gòn.
Tình thế đã buộc Mĩ phải thay Diệm. Ngày 1 - 11 - 1963, Mĩ chỉ đạo các tướng lĩnh trong quân đội Sài Gòn do Dương Văn Minh cầm đầu làm đảo chính lật đổ chính quyền của anh em Diệm - Nhu với hi vọng ổn định tình hình.
Mĩ triển khai Chiến tranh đặc biệt, lực lượng quân đội Sài Gòn tăng lên 560.000 người - Ảnh 4.
Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu phản đối chính quyền tay sai đàn áp Phật Giáo
Phối hợp với đấu tranh chính trị của quần chúng, lực lượng quân giải phóng liên tiếp mở những chiến dịch tiến công quy mô lớn, tiêu biểu là chiến dịch Đông - Xuân 1964 - 1965 trên các chiến trường miền Nam và miền Trung.
Với những chiến thắng dồn dập, quân dân ta ở miền Nam đã làm phá sản chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mĩ.

Mĩ quyết tâm chống phá miền Bắc, lấy cả "pháo đài bay" B52 để tập kích Hà Nội

B.T sưu tầm, SGK Sử 9
Mĩ quyết tâm chống phá miền Bắc, lấy cả "pháo đài bay" B52 để tập kích Hà Nội

Ngày 14-12-1972, Níchxơn phê chuẩn kế hoạc mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố trong 12 ngày đêm liên tục, bắt đầu từ tối 18 đến hết ngày 29-12-1972.

Chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và "Đông Dương hóa chiến tranh" của Mĩ
Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh cục bộ", Mĩ tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới ở miền Nam, chuyển sang chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, thực hiện chiến lược "Đông Dương hóa chiến tranh".
"Việt Nam hóa chiến tranh" được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp về hỏa lực, không quân, hậu cần Mĩ và vẫn do Mĩ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn.
Mĩ quyết tâm chống phá miền Bắc, lấy cả pháo đài bay B52 để tập kích Hà Nội - Ảnh 1.
Mỹ tăng cường viện trợ cho quân đội tay sai
Với chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", quân Mĩ và quân đồng minh rút dần khỏi chiến tranh để giảm xương máu người Mĩ trên chiến trường, đồng thời là quá trình tăng cường lực lượng của quân đội Sài Gòn nhằm tận dụng xương máu người Việt Nam. Thực chất, đó là sự tiếp tục thực hiện âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt" của Mĩ.
Quân đội Sài Gòn còn được Mĩ sử dụng như lực lượng xung kích ở Đông Dương trong các cuộc hành quân mở rộng xâm lược Campuchia (1970), tăng cường chiến tranh ở Lào (1971), thực hiện âm mưu "dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương".
Mĩ còn dùng thủ đoạn ngoại giao như : lợi dụng mâu thuẫn Trung-Xô, thỏa hiệp với Trung Quốc, hào hoãn với Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước này đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và "Đông Dương hóa chiến tranh" của Mĩ
Sự ra đời của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ngày 6-6-1969 là thắng lợi mở đầu giai đoạn chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" . Vừa ra đời, Chính phủ đã được 23 nước công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của nhân dân ta ở cả hai miền đang trên đà thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9-1969. Đó là một tổn thất vô cùng to lớn đối với dân tộc ta, đối với cách mạng ta.
Trước khi đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một bản Di chúc lịch sử. Trong Di chúc, Người nêu rõ: " Cuộc kháng chiến chống Mĩ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mĩ đến thắng lợi hoàn toàn.
Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mĩ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà". Người cũng nhắc nhở "Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".
Mĩ quyết tâm chống phá miền Bắc, lấy cả pháo đài bay B52 để tập kích Hà Nội - Ảnh 2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là mất mát to lớn với nhân dân cả nước
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta ở hai miền đẩy mạnh kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Trong hai năm 1970-1971, nhân dân ta cùng với nhân dân hai nước Campuchia và Lào đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận quân sựu và chính trị.
Trong hai ngày 24 và 25-4-1970, Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam-Lào-Camphuchia họp, nhằm đối phó với việc Mĩ chỉ đạo tay sai làm đảo chính lật đổ chính phủ trung lập của N. Xihanúc ở Campuchia (18-3-1970), để chuẩn bị cho bước phiêu lưu quân sự mới. Hội nghị đã biểu thị quyết tâm của nhân dân ba nước đoàn kết chiến đấu chống Mĩ.
Từ ngày 30-4 đến ngày 30-6-1970, quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân dân Campuchia đã đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 17 000 tên địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn với 4,5 triệu dân.
Từ ngày 12-2 đến ngày 23-3-1971, quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân dân Lào đã đập tan cuộc hành quân mang tên "Lam Sơn 719" của 4,5 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 22 000 tên địch, buộc quân Mĩ và quân đội Sài Gòn phải rút khỏi Đường 9-Nam Lào, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.
Mĩ quyết tâm chống phá miền Bắc, lấy cả pháo đài bay B52 để tập kích Hà Nội - Ảnh 3.
Quân đội chính quyền Sài Gòn thất bại thảm hại trong chiến dịch Lam Sơn 719
Ở khắp các thành thị, phong trào của các tầng lớp nhân dân nổ ra liên tục. Đặc biệt ở Sài Gòn, Đà Nẵng, phong trào học sinh, sinh viên phát triển rầm rộ đã thu hút đông đảo giới trẻ tham gia.
Tại khắp các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven đô thị đều có phong trào cảu quần chúng nổi dậy chống "bình định", phá "ấp chiến lược" cảu địch. Đến đầu năm 1971, cách mạng giành quyền làm chủ thêm 3 600 âp với 3 triệu dân. CHính quyền cách mạng cũng đã cấp cho nông dân trên 1,6 triệu héc ta ruộng đất.
Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972
Ngày 30-3-1972, quân ta mở cuộc Tiến công chiến lược đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tiến công chủ yếu, rồi phát triển rộng khắp chiến trường miền Nam.

Sau đòn mở đầu bất ngờ của quân ta, quân đội Sài Gòn có sự yểm trợ của Mĩ đã phản công, gây cho ta nhiều thiệt hại. Đế quốc Mĩ tiến hành trở lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc.Đến cuối tháng 6-1972, quân ta đã chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20 vạn quân Sài Gòn, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn và đông dân.
Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 đã giáng đòn nặng nề vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", buộc Mĩ phải tuyên bố "Mĩ hóa" trở lại chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận sự thất bại của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh").
Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội
Trên khắp miền Bắc dấy lên phong trào thi đua học tập, công tác, lao động sản xuất nhằm khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội.
Trong nông nghiệp, Chính phủ đã đề ra một số chủ trương khuyến khích sản xuất.Chăn nuôi được đưa lên thành ngành chính. Các hợp tác xã tích cực áp dụng tiến bộ khoa học-kĩ thuật với nhiều biện pháp thâm canh tăng vụ v.v..Nhờ đó, nhiều hợp tác xã đạt được mục tiêu 5 tấn thóc trên 1 héc ta gieo trồng trong 1 năm, một số hợp tác xã đạt từ 6 đến 7 tấn. Sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với năm 1968.
Trong công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp trung ương và địa phương bị tàn phá được khôi phục nhanh chóng. Nhiều công trình đang làm dở được ưu tiên đầu tư xây dựng tiếp và đưa vào hoạt động.
Nhà máy thủy điện Thác Bà (Yên Bái) là nhà máy thủy điện đầu tiên của ta được gấp rút hoàn thành và bắt đầu phát điện từ tháng 10-1971. Một số ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng v.v.. đều có bước phát triển. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với năm 1968.
Mĩ quyết tâm chống phá miền Bắc, lấy cả pháo đài bay B52 để tập kích Hà Nội - Ảnh 5.
Vừa chống chiến tranh phá hoại, nhân dân miền Bắc vẫn tiếp tục khôi phục kinh tế để chi viện cho miền Nam
Hệ thống giao thông vận tải, nhất là các tuyến giao thông chiến lược bị phá hoại nặng nề, được khẩn trương khôi phục.
Về văn hóa-giáo dục, y tế cũng nhanh chóng được phục hồi và phát triển. Đời sống nhân dân ổn định. Một số khó khăn do sai lầm, khuyết điểm của ta trong chỉ đạo, quản lí kinh tế-xã hội bước đầu được khắc phục.
Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương
Ngày 6-4-1972, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16-4-1972, Níchxơn chính thức tiến hành cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ hai); đến ngày 9-5-1972, chúng tuyên bố phong tỏa cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc.
Nhờ được sự chuẩn bị trước với tư thế luôn sẵn sàng chiến đấu, miền Bắc đã chủ trương, kịp thời chống trả địch ngay từ trận đấu.
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, các hoạt động sản xuất, xây dựng ở miền Bắc vẫn không ngừng trệ, giao thông vận tải bảo đảm thông suốt, các mặt hoạt động khác như văn hóa, giáo dục, y tế được duy trì và phát triển.
Gần hai tháng sau khi tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, ngày 14-12-1972, Níchxơn phê chuẩn kế hoạc mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố trong 12 ngày đêm liên tục, bắt đầu từ tối 18 đến hết ngày 29-12-1972.
Mĩ quyết tâm chống phá miền Bắc, lấy cả pháo đài bay B52 để tập kích Hà Nội - Ảnh 6.
Siêu pháo đài bay B52 không quân Mĩ dùng trong chiến dịch ném bom miền Bắc
Quân dân miền Bắc đã đánh trả không quân Mĩ những đòn đích đáng, bắn rơi 81 máy bay (trong đó có 34 máy bay B52 và 5 máy bay F111), bắt sống 43 phi công Mĩ, đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 của chúng. Thắng lợi này được coi như trận "Điện Biên Phủ trên không".
"Điện Biên Phủ trên không" là trận thắng quyết định của ta, buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng hẳn các hoạt động chống phá miền Bắc (15-1-1973) và kí Hiệp ước Pari về chấm dứt chiến tranhh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27-1-1973)

Chiến tranh Cục bộ: Với 1,5 triệu quân, Mĩ mở nhiều cuộc càn quét, "tìm diệt" quân ta

B.T sưu tầm, SGK Sử 9
Chiến tranh Cục bộ: Với 1,5 triệu quân, Mĩ mở nhiều cuộc càn quét, "tìm diệt" quân ta

Sau khi đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, nhân dân hai miền Nam – Bắc lại tiếp phải chiến đấu chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ giai đoạn 1965 – 1968. 

Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ ở miền Nam
Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mĩ chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" – được tiến hành bằng lực lượng quân đội Mĩ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn – lúc cao nhất (vào năm 1969) lên gần l,5 triệu quân.
Dựa vào ưu thế quân sự, với quân số đông, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, Mĩ vừa mới vào miền Nam đã cho quân mở ngay cuộc hành quân "tìm diệt" vào căn cứ của quân giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi). Tiếp đó, Mĩ mở liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô: đông - xuân 1965 – 1966 và 1966 - 1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định".
Chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ
Nhân dân ta vẫn giành được thắng lợi bằng sức mạnh của cả dân tộc, của tiền tuyến và hậu phương cùng với ý chí "quyết chiến quyết thắng giặc Mĩ xâm lược". Mở đầu là thắng lợi ở Vạn Tường (Quảng Ngãi).
Mờ sáng 18 - 8 - 1965, Mĩ huy động 9.000 quân, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay phản lực chiến đấu, 6 tàu chiến, mở cuộc hành quôn vào thôn Vạn Tường.
Sau một ngày chiến đấu, một trung đòan chủ lực của ta cùng với quân du kích và nhân dân địa phương đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 địch, bắn cháy 22 xe tăng va xe bọc thép, hạ 13 máy bay.
Chiến tranh Cục bộ: Với 1,5 triệu quân, Mĩ mở nhiều cuộc càn quét, tìm diệt quân ta - Ảnh 1.
Lược đồ trận Vạn Tường (tháng 8 – 1965)
Vạn Tường đã mở đầu cao trào "Tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt" trên khắp miền Nam.
Sau trận Vạn Tường, khả năng chiến thắng Mĩ trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của quân dân ta tiếp tục được chứng minh trong hai mùa khô.
Bước vào mùa khô thứ nhất (đông - xuân 1965 - 1966), với 720.000 quân (trong đó có 220.000 quân Mĩ), địch mở đợt phản công với 5 cuộc hành quân "tìm diệt" lớn nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và Khu V, với mục tiêu đánh bại chủ lực quân giải phóng.
Bước vào mùa khô thứ hai (đông - xuân 1966 - 1967), với lực lượng được tăng lên hơn 980.000 quân (riêng quân Mĩ và đồng mình chiếm hơn 440.000), Mĩ mở đợt phản công với ba cuộc hành quân lớn "tìm diệt" và "bình định", lớn nhất là cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh), nhằm tiêu diệt quân chủ lực va cơ quan đầu não của ta.
Chiến tranh Cục bộ: Với 1,5 triệu quân, Mĩ mở nhiều cuộc càn quét, tìm diệt quân ta - Ảnh 2.
Nhân dân Mỹ biểu tình phản đối chiến tranh ở Việt Nam năm 1968
Kết quả sau hai mùa khô, trên toàn miền Nam, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 240.000 tên địch, bắn rơi và phá huỷ hơn 3700 máy bay, phá hủy hơn 2200 xe tăng và xe bọc thép, hơn 3400 ô tô.
Ở hầu khắp các vùng nông thôn, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quần chúng đã đứng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, phá từng mảng "ấp chiến lược". Trong hầu khắp các thành thị, giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động khác, học sinh, sinh viên, Phật tử, binh sĩ Sài Gòn… đấu tranh đòi Mĩ rút về nước, đòi tự do dân chủ. Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Đến cuối năm 1967, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã có cơ quan thường trực ở các nước xã hội chủ nghĩaa và ở một sẽ nước khácc. Cương lĩnh của Mặt trận được 41 nước, 12 tổ chức quốc tế và 5 tổ chức khu vực lên tiếng ủng hộ.
Cuộc Tổng tiến công và nói dậy Xuân Mậu Thân (1968)
Bước vào xuân 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn trong năm bầu cử tổng thống ở Mĩ (1968), ta chủ trương mở cuộc Tổng tiền công và nổi dậy trên toàn miền Nam mà trọng tâm là các đô thị nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân Mĩ, quân đồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyền và quân đội Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán và rút quân về nước.
Chiến tranh Cục bộ: Với 1,5 triệu quân, Mĩ mở nhiều cuộc càn quét, tìm diệt quân ta - Ảnh 3.
Sư đoàn 320 hành quân vào mặt trận Đường 9 – Khe Sanh năm 1968
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược của quân chủ lực vào hầu khắp các đô thị trong đêm 30 – rạng sáng 31 - 1 - 1968 (Tết Mậu Thân).
Quân dân ta ở miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37 trong tổng số 44 tỉnh, 4 trong số 6 đô thị lớn, 64 trong số 242 quận lị, ở hầu khắp các "ấp chiến lược", các vùng nông thôn.
Tại Sài Gòn, quân giải phóng tiến công đến tận các vị trí đầu não của địch như tòa Đại sứ Mĩ, Dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất...
Mặc dù có những tổn thất do thiếu sót trong chỉ đạo, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy có ý nghĩa to lớn, làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố "phi Mĩ hoá" chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận thất bại của chiến lược "Chiến tranh cục bộ"), chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoài miền Bắc, chấp nhận đàm phán ở Pa-ri để bàn về chấm dứt chiến tranh.

Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vừa sản xuất

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 
Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vừa sản xuất

Song song với đẩy mạnh hành động quân sự ở miền Nam, Mĩ mở các đợt chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu, vừa sản xuất để làm hậu phương lớn cho miền Nam.  

Mĩ tiến hành chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc
Cuối năm 1964 đầu năm 1965, cùng với việc đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam. Mĩ mở rộng chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc,
Ngày 5 - 8 - 1964, sau khi dựng lên "sự kiện Vịnh Bắc Bộ", Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc như cửa sông Gianh (Quảng Bình), Vịnh Bến Thủy (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hóa), thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh).
Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vừa sản xuất - Ảnh 1.
Hải quân Việt Nam chiến đấu trong "sự kiện Vịnh Bắc Bộ"
Ngày 7 - 2 - 1965, lấy cớ "trả đũa" việc quân giải phóng miền Nam tiến công doanh trại quân Mĩ ở Plây Cu, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới (Quảng Bình), đảo Cồn Cỏ (Vĩnh Linh – Quảng Trị)... chính thức gây ra cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ nhất).
Không quân và hải quân Mĩ tập trung ném bom các mục tiêu quân sự, các đầu mối giao thông, các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, các công trình thủy lợi, các khu đông dân... Chúng ném bom cả trường học, nhà trẻ, bệnh viện, khu an dưỡng, đền, chùa và nhà thờ.
Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất
Ngay từ ngày đầu Mĩ mở rộng chiến tranh, miền Bắc đã kịp thời chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, thực hiện quân sự hóa toàn dân, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào phòng tránh; triệt để sơ tán, phân tán những nơi đông dân để tránh thiệt hại về người và của.
Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vừa sản xuất - Ảnh 2.
Cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa) là một trong những mục tiêu bắn phá của Mĩ
Trong điều kiện chiến tranh phá hoại, ta chủ trương đẩy mạnh kinh tế địa phương. chú trọng phát triển nông nghiệp. Xây dựng kinh tế thời chiến theo hướng đó sẽ hạn chế được sự tàn phá của chiến tranh, tăng khả năng đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến đấu tại chỗ và đời sống của nhân dân từng địa phương.
Trên toàn miền Bắc dấy lên phong trào thi đua chống Mĩ, cứu nước, thể hiện sáng ngời chân lí "Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Trong hơn bốn năm (từ ngày 5 - 8 - 1964 đến ngày 1 - 11 - 1968), miền Bắc bắn rơi, phá huỷ 3243 máy bay, trong đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay F111; loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn phi công; bắn cháy và bắn chìm 143 tàu chiến. Ngày 1 - 11 - 1968, Mĩ tuyên bố ngừng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vừa sản xuất - Ảnh 3.
Công nhân giao thông Nam Định thông đường sau khi Mỹ ném bóm phá hoại năm 1968
Trên mặt trận sản xuất, miền Bắc cũng lập được những thành tích quan trọng.
Về nông nghiệp, diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên, ngày càng có nhiều hợp tác xã, nhiều địa phương đạt "Ba mục tiêu" (5 tấn thóc, 2 đầu lợn, 1 lao động trên 1 hécta diện tích gieo trồng trong 1 năm). Năm 1965, miền Bắc có 7 huyện, 640 hợp tác xã đạt mục tiêu 5 tấn thóc trên 1 hécta trong hai vụ, đến năm 1967 tăng lên 30 huyện và 2485 hợp tác xã.
Về công nghiệp, năng lực sản xuất ở một số ngành được giữ vững. Các cơ sở công nghiệp lớn đã kip thời sơ tán, phân tán, sớm đi vào sản xuất, đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất cho chiến đấu và đời sống. Công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng phát triển. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh.
Giao thông vận tải là một trong những trọng điểm bắn phá ác liệt của địch, nhưng ta vẫn bảo đảm giao thông thông suốt, đáp ứng được yêu cầu phục vụ chiến đấu, sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
Miền Bắc thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn
Là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, miền Bắc luôn hướng về miền Nam. Vì miền Nam ruột thịt, miền Bắc phấn đấu "Mỗi người làm việc bằng hai". Vì tiền tuyến kêu gọi, hậu phương sẵn sàng đáp lại "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người".
Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vừa sản xuất - Ảnh 4.
Tàu không số chở hàng chi viện miền Nam bằng đường Hồ Chí Minh trên biển
Tuyến đường vận chuyền chiến lược Bắc - Nam mang tên Hồ Chí Minh trên bộ (dọc theo dãy Trường Sơn) và trên biển (dọc theo bờ biển) bắt đầu khai thông từ tháng 5 - 1959, đã nối liền hậu phương với tiền tuyến.
Nhờ hai tuyến đường vận chuyển chiến lược trên, qua 4 năm (1965 - 1968), miền Bắc đã đưa hơn 300.000 cán bộ, bộ đội vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dưng kinh tế, văn hoá tại các vùng giải phớng; gửi vào miền Nam hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực. thực phẩm, thuốc men và nhiều vật dụng khác. Tính chung sức người, sức của từ miền Bắc chuyển vào miền Nam sau bốn năm đã tăng gấp 10 lần so với thời kì trước.

Mĩ buộc phải rút quân, miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 | 
Mĩ buộc phải rút quân, miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh

Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không thúc đẩy chiến thắng trên chính trường. Mĩ kí Hiệp định Pa-ri, buộc phải rút quân khỏi nước ta. Miền Bắc vừa khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa tiếp tục chi viện miền Nam.

Miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá, ra sức chi viện cho miền Nam
Sau Hiệp định Pa-ri năm 1973 về Việt Nam, quân Mĩ buộc phải rút khỏi nước ta, làm thay đối so sánh lực lượng ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Miền Bắc trở lại hoà bình, khắc phục hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, ra sức chi viện cho tiền tuyến miền Nam.
Đến cuối tháng 6 - 1973, miền Bắc cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ thuỷ lôi, bom mìn do Mĩ thả trên biển, trên sông, bảo đảm đi lại bình thường.
Sau hai năm (1973 - 1974), về cơ bản miền Bắc khôi phục xong các cơ sở kinh tế, các hệ thống thuỷ nông, mạng lưới giao thông, các công trình vốn hóa, giáo dục, y tế. Kinh tế có bước phát triển.
Đến cuối năm 1974, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên một số mặt quan trọng đã đạt và vượt mức năm 1964 và năm 1971 – là hai năm đợt mức cao nhất trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đời sống nhân dân được ổn định.
Thực hiện nghĩa vụ hậu phương, trong hai năm 1973 - 1974, miền Bắc đưa vào các chiến trường gần 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, nhân viên kĩ thuật., Đột xuất trong hai tháng đầu năm 1975, miền Bắc gấp rút đưa vào miền Nam 5,7 vạn bộ đội. Miền Bắc cũng đưa vào chiến trường 26 vạn tấ vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thực, thực phẩm.
Chi viện của miền Bắc cho miền Nam thời kì này, ngoài việc phục vụ nhiệm vụ chiến đấu với trọng tâm tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, còn chuẩn bị cho xây dựng và tiếp quản vùng giải phóng sau khi chiến tranh kết thúc.
Mĩ buộc phải rút quân, miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh - Ảnh 1.
Nông dân miền Bắc thực hiện thâm canh, tăng năng suất để tích cực chi viện cho miền Nam
Đấu tranh chống địch "bình định - lấn chiếm", tạo thế và lực, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam
Với Hiệp định Pa-ri năm 1973 về Việt Nam, ta đã "đánh cho Mĩ cút". Ngày 29 - 3 - 1973, toán lính Mĩ cuối cùng đã rút khỏi nước ta. Nhưng Mĩ vẫn giữ lại hơn 2 vạn cố vấn quân sự, lập ra Bộ chỉ huy quân sự, tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài Gòn.
Được cố vấn Mĩ chỉ huy và nhận viện trợ của Mĩ, chính quyền Sài Gòn ngang nhiên phá hoại Hiệp định Pa-ri. Chúng huy động gần như toàn bộ lực lượng tiến hành chiến địch "tràn ngập lãnh thổ", liên tiếp mở những cuộc hành quân "bình định - lấn chiếm" vùng giải phóng.
Về phía ta, việc kí Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và quân đội xâm lược Mĩ rút khỏi nước ta đã tạo nên sự thay đổi căn bản trong so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, có lợi cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam chống âm mưu và hành động mới của Mĩ và chính quyền Sài Gòn.
Trong cuộc đấu tranh chống "bình định - lấn chiếm", chống âm mưu "tràn ngập lãnh thổ" của địch vào những tháng đầu sau khi kí Hiệp định, nhân dân ta đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng do không đánh giá hết âm mưu phá hoại Hiệp định của địch, do quá nhấn mạnh đến hoà bình, hoà hợp dân tộc... nên chúng ta bị mất đất, mất dân trên một số địa bàn quan trọng.
Nắm bắt tình hình trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 21 trong tháng 7 - 1973. Trên cơ sở nhận định kẻ thù vẫn là đế quốc Mĩ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu, kẻ đang phá hoại hoà bình, hoà hợp dân tộc, ngăn cản nhân dân ta đi tới độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, Hội nghị nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoan hiện tại là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, tiếp tục con đường cách mạng bạo lực, kiên quyết đấu tranh trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao.
Mĩ buộc phải rút quân, miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh - Ảnh 2.
Quân giải phóng tiến vào trụ sở cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa ở tỉnh Phước Long
Từ cuối năm 1973, quân dân ta ở miền Nam vừa kiên quyết đánh trả địch trong các cuộc hành quân "bình định - lấn chiếm", bảo vệ vùng giải phóng, vừa chủ động mở những cuộc tiến công địch tại những căn cứ xuất phát các cuộc hành quân của chúng, mở rộng vùng giải phóng.

Tại các vùng giải phóng, đồng thời với cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, nhân dân ta ra sức khôi phục và đẩy mạnh sản xuất, tăng nguồn dự trữ chiến lược cho cuộc chiến đấu hoàn thành giải phóng miền Nam.Cuối năm 1974 đầu năm 1975, ta mở đợt họat động quân sự đông – xuân vào hướng Nam Bộ, trọng tâm là đồng bằng sông Cửu tong và Đông Nam Bộ. Quân ta đã giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch đánh Đường 14 - Phước Long, giải phóng Đường 14, thị xã và toàn tỉnh Phước Long với 5000 dân.
Năm 1973, diện tích gieo trồng ở các vùng giải phóng thuộc đồng bằng sông Cửu Long tăng 20% so với năm 1972. Nhờ sản xuất phát triển, đóng góp của nhân dân cho cách mạng ngày càng tăng. Năm 1973, nhân dân khu IX (miền Tây Nam Bộ) đã đóng góp 1,7 triệu giạ lúa (bằng 34.000 tấn); trong 6 tháng đầu năm 1974, đóng góp được 2,7 triệu giạ (bằng 48.000 tấn).
Các ngành sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, các mặt hoạt động văn hoá - xã hội, giáo dục, y tế cũng được đấy mạnh.

Hiệp định Paris được ký kết, Mĩ buộc phải rút khỏi Việt Nam

B.T sưu tầm, SGK Sử 9
Hiệp định Paris được ký kết, Mĩ buộc phải rút khỏi Việt Nam

Lập trường của phía Việt Nam là đòi rút hết quân Mĩ và đồng minh khỏi miền Nam, đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. 

Cuộc thương lượng chính thức tại Pa-ri họp ngày 13-5-1968 giữa hai bên đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính phủ Hoa Kì; và từ 25-1-1969, giữa bốn bên là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam), Hoa Kì và Việt Nam Cộng Hòa (Chính quyền Sài Gòn).

Lập trường của phía Việt Nam là đòi rút hết quân Mĩ và đồng minh khỏi miền Nam, đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam.Lập trường bốn bên, mà thực chất là hai bên Việt Nam và Hoa Kì, rất xa nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn thương lượng.
Lập trường của phía Mĩ thì ngược lại, đòi quân đội miền Bắc cũng phải rút khỏi miền Nam, từ chối kí dự thảo Hiệp định do phía Việt Nam đưa ra (10-1972) để mở cuộc tập kích không quân bằng máy bay B52 vào Hà Nội –Hải Phòng tron g 12 ngày đêm cuối năm 1972, với ý đồ buộc phía Việt Nam kí dự thảo Hiệp định do Mĩ đưa ra
Nhưng Mĩ đã thất bại trong cuộc tập kích không quân bằng máy bau B52 và buộc phải trở lại kí dự thảo Hiệp định Pa-ri do ta đưa ra trước đó.
Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được kí chính thức ngày 27-1-1973 giữa bốn Bộ trưởng đại diện cho các chính phủ tham dự Hội nghị tại Pa-ri và bắt đầu có hiệu lực từ ngày kí chính thức.
Hiệp định Paris được ký kết, Mĩ buộc phải rút khỏi Việt Nam - Ảnh 2.
Lê Đức Thọ (giữa) và Henry Kissinger (đeo kính), những nhân vật chủ chốt của Việt Nam và Mĩ khi đàm phán
Nội dung Hiệp định gồm những điều khoản cơ bản sau:
- Hoa Kỳ rút hết quân đội của mình và quân đồng minh, hủy bỏ các căn cứ quân sự Mĩ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
- Nhân dân miền Nam tự quyết định tương lai chính trị thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài.
- Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.
- Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.
- Hoa Kỳ cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương.
Hiệp định Paris được ký kết, Mĩ buộc phải rút khỏi Việt Nam - Ảnh 3.
Người phụ nữ "thép" Nguyễn Thị Bình, bà đại diện cho Chính phủ Cách mạng lâm thời miền nam Việt Nam tại Paris
Hiệp định Pa-ri về Việt Nam (được Hội nghị 12 nước họp ngày 2-3-1973 tại Pa-ri công nhận về mặt pháp lý quốc tế) là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân ta ở hai miền đất nước. 
Với Hiệp định Pa-ri, Mĩ phải công nhân các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, phải rút hết quân về nước. Đó là thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền nam

Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc

Tận dụng ưu thế và thời cơ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị quyết định mở một loạt chiến dịch mùa xuân năm 1975, tiến tới thống nhất đất nước.

Chủ trương, kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam
Cuối năm 1974 đầu năm 1975, trong tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 và 1976.
Kế hoạch giải phóng đề ra là hai năm, nhưng Bộ Chính trị lại nhấn mạnh: "Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975". Bộ Chính trị cũng phân tích rõ sự cần thiết tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hoá..., giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 1.
Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh Xuân 1975
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Thực hiện kế hoạch giải phóng miền Nam, ta tập trung chủ lực mạnh với vũ khí, kĩ thuật hiện đại, mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên – địa bàn chiến lược quan trọng. Trong trận then chốt mở màn ở Buôn Ma Thuột ngày 10 - 3 - 1975, ta đã nhanh chóng giành thắng lợi. Ngay 12 - 3 - 1975, địch phản công định chiếm lại Buôn Ma Thuột, nhưng không thành. Hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển. quân địch mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn.
Ngày 14 - 3 - 1975, địch rút toàn bộ quân khỏi Tây Nguyên về giữ vùng duyên hải miền Trung. Trên đường rút chạy, chúng bị quân ta truy kích tiêu diệt. Đến ngày 24 - 3 - 1975, Tây Nguyên hoàn toàn được giải phóng.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 2.
Lược đồ chiến dịch Tây Nguyên
Nhận thấy thời cơ chiến lược đến nhanh, hết sức thuận lợi ngay khi chiến dịch Tây Nguyên đang tiếp diễn, Bộ Chính trị có quyết định kịp thời thực hiện kế hoạch giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam, trước tiên tiến hành chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng.
Ngoy 21 - 3, quân ta đánh thẳng vào căn cứ địch ở Huế, chặn các đường rút chạy của chúng, hình thành thế bao vây địch trong thành phố. Đúng 10 giờ 30 ngày 25 - 3, quân ta tiến vào cố đô Huế; đến ngày 26 – 3, giải phóng thành phố và toàn tỉnh Thừa Thiên.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 3.
Quân giải phóng tiến vào cố đô Huế
Cùng thời gian này, quân ta tiến vào giải phóng thị xã Tam Kì, Quảng Ngãi, Chu Lai... tạo thêm một hướng uy hiếp Đà Nẵng từ phía nam.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 4.
Lược đồ chiến dịch Huế - Đà Nẵng
Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, một căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mĩ và quân đội Sài Gòn, rơi vào thế cô lập. Sáng 29 – 3, quân ta từ ba phía bắc, tây, nam tiến thẳng vào thành phố. Đến 3 giờ chiều, toàn bộ thành phố Đà Nẵng được giải phóng.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 5.
Các đơn vị thần tốc tiến về giải phóng Xuân Lộc, mở cửa ngõ phía đông Sài Gòn
Trước khi bắt đầu chiến dịch giải phóng Sài Gòn (mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh), quân ta tiến công Xuân Lộc và Phan Rang – những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 6.
Lược đồ chiến dịch Hồ Chí Minh
Trước việc tuyến phòng thủ bị chọc thủng (Phan Rang 16 - 4, Xuân Lộc 21 - 4), nội bộ Mĩ và quân đội Sài Gòn càng thêm hoảng loạn. Ngày 18 - 4 Tổng thống Mĩ ra lệnh di tản hết người Mĩ khỏi Sài Gòn Ngày 21 – 4, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức Tổng thống.
5 giờ chiều 26 - 4, chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Năm cánh quân cùng lúc vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 7.
Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc lập ngày 30 – 4 – 1975
10 giờ 45 phút ngày 30 - 4, xe tăng của ta tiến thẳng vào Dinh Độc lập, bắt sống toàn bộ Chính phủ Trung ương Sài Gòn, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đã phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc tòa nhà Phủ Tổng thống, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Sau giải phóng Sài Gòn, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh còn lại, thừa thắng nhất tề đứng lên tiến công và nổi dậy. Đến ngày 2 - 5, tỉnh cuối cùng ở miền Nam được giải phóng là tỉnh Châu Đốc. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 kết thúc thắng lợi.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 8.
Lược đồ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975)
Ý nghĩa lịch sử
Cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mĩ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945; chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc ở nước ta. Trên cơ sở đó, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất đất nước.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước mở ra kỉ nguyên mới cho lịch sử dân tộc – kỉ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của nhân dân ta, thất bại của đế quốc Mĩ đã tác động mạnh đến tình hình nước Mĩ và thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhất là đối với phong trào giải phóng dân tộc.
Đầu xuân 1975, quân ta giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn Tổ quốc - Ảnh 9.
Nhân dân Sài Gòn mít tinh mừng đất nước thống nhất
Thắng lợi đó "Mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".
Nguyên nhân thắng lợi

Nhân dân ta ở hai miền đoàn kết nhất trí, giàu lòng yêu nước, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà. Hậu phương miền Bắc không ngừng lớn mạnh, có khả năng đáp ứng kịp thời các yêu cầu của cuộc chiến đấu ở hai miền.Cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước thắng lợi nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đường lối tiến hành đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Thắng lợi đó là nhờ có sự phối hợp chiến đấu, đoàn kết giúp đỡ nhau trong đấu tranh chống kẻ thù chung của ba dân tộc ở Đông Dương; sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các lực lượng cách mạng, hoà bình, dân chủ trên thế giới, nhất là của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác.

Giải phóng hoàn toàn miền Nam, nước ta nỗ lực khôi phục kinh tế ở cả hai miền

B.T sưu tầm, SGK Sử 9 
Giải phóng hoàn toàn miền Nam, nước ta nỗ lực khôi phục kinh tế ở cả hai miền

Ở miền Bắc, tuy chiến tranh đã chấm dứt sau Hiệp định Pa-ri năm 1973, nhưng do sự tàn phá nặng nề của hai lần chiến tranh phá hoại nên đến giữa năm 1976 mới căn bản hoàn thành nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế.

Tình hình miền Bắc-Nam sau đại thắng mùa xuân 1975
Đại thắng Xuân 1975 đã đưa đất nước ta bước vào kỉ nguyên độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trải qua hơn hai mươi năm (1954 - 1975) tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện, đã xây dựng được cơ sở vật chất - kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. 
Nhưng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mĩ kéo dài và hết sức ác liệt đã tàn phá nặng nề gây hậu quả lâu dài đối với miền Bắc, làm cho quá trình tiến lên của đất nước bị chậm lại nhiều năm.
Giải phóng hoàn toàn miền Nam, nước ta nỗ lực khôi phục kinh tế ở cả hai miền - Ảnh 1.
Hậu quả sau 20 chiến tranh là vô cùng nặng nề
Nhiều làng mạc, đồng ruộng bị tàn phá. Nửa triệu hécta ruộng đất bị bỏ hoang. Một triệu hécta ruộng bị chất độc hóa học và bom đạn cày xới. Vô số bom mìn còn vùi lấp trên các cánh đồng, ruộng vườn, nơi cư trú của nhân dân. Đội ngũ thất nghiệp có tới hàng triệu người. Số người mù chữ chiếm tỉ lệ lớn trong cư dân.
Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng chế độ thực dân mới của Mĩ cùng bộ máy chính quyền Sài Gòn ở trung ương bị sụp đổ, nhưng cơ sở của chúng ở địa phương cùng bao di hại xã hội vẫn còn tồn tại.
Trong chừng mực nhất định, miền Nam có nền kinh tế phát triển theo hướng tư bản, song nền kinh tế nông nghiệp vẫn còn lạc hậu, sản xuất nhỏ và phân tán là phổ biến, phát triển mất cân đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ từ bên ngoài.
Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa ở hai miền đất nước
Ở miền Bắc, tuy chiến tranh đã chấm dứt sau Hiệp định Pa-ri năm 1973, nhưng do sự tàn phá nặng nề của hai lần chiến tranh phá hoại nên đến giữa năm 1976 mới căn bản hoàn thành nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế.
Trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước 6 tháng cuối năm 1975 và 6 tháng đầu năm 1976, miền Bắc có những tiến bộ đáng kể. Diện tích trồng lúa, hoa màu, cây công nghiệp năm 1976 tăng hơn năm 1975. Nhiều công trình, nhà máy được xây dựng và mở rộng thêm, sản lượng của phần lớn các sản phẩm quan trọng đều đạt và vượt mức trước chiến tranh. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, nghệ thuật phát triển mạnh.
Giải phóng hoàn toàn miền Nam, nước ta nỗ lực khôi phục kinh tế ở cả hai miền - Ảnh 2.
Nhân dân cả nước đoàn kết để khôi phục kinh tế, văn hóa
Miền Bắc còn ra sức làm tròn nghĩa vụ của căn cứ địa cách mạng cả nước và nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Cam-pu-chia trong giai đoạn mới.
Ở miền Nam, công việc tiếp quản các vùng mới giải phóng từ thành thị đến nông thôn, từ đất liền đến hải đảo, từ căn cứ quân sự đến các cơ sở sản xuất, hành chính, văn hóa được tiến hành khẩn trương và đạt kết quả tốt.
Ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và các vùng mới giải phóng, chính quyền cách mạng và đoàn thể quần chúng các cấp nhanh chóng được thành lập.
Được sự hướng dẫn và giúp đỡ của Nhà nước, hàng triệu đồng báo trong thời gian chiến tranh bị dồn vào các "ấp chiến lược" hay bỏ chạy vào các thành phố, không có việc làm, được hồi hương, chuyển về nông thôn tham gia sản xuất hoặc đi xây dựng vùng kinh tế mới.
Chính quyền cách mạng tịch thu toàn bộ tài sản và ruộng đất của bọn phản động trốn ra nước ngoài, tuyên bố xóa bỏ bóc lột phong kiến, tiến hành điều chỉnh ruộng đất trong nội bộ nông dân, quốc hữu hóa ngân hàng, thay đổi tiền của chính quyền Sài Gòn bằng đồng tiền cách mạng.
Giải phóng hoàn toàn miền Nam, nước ta nỗ lực khôi phục kinh tế ở cả hai miền - Ảnh 3.
Đoàn tàu Thống Nhất đầu tiên khởi hành trên sân ga Hà Nội vào TP Hồ Chí Minhsau lễ khánh thành ngày 31/12/1976
Để đáp ứng nhu cầu cấp bách trước mắt và lâu dài của nhân dân về lương thực, chính quyền cách mạng rất chú trọng khôi phục sản xuất nông nghiệp. Các cơ sở sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp trở lại hoạt động.
Các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế... được tiến hành khẩn trương từ những ngày đầu mới giải phóng.
Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước
Sau đại thắng Xuân 1975, Tổ quốc Việt Nam đã được thống nhất về lãnh thổ song ở mỗi miền lại tồn tại một hình thức tổ chức nhà nước khác nhau.
Đáp lại nguyện vọng chính đáng của nhân dân cả nước, tháng 9 - 1975. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 24 đã đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Từ ngày 15 đến ngày 21 - 11 - 1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước họp tại Sài Gòn, đã hoàn toàn nhất trí về chủ trương, thống nhất đất nước về mặt nhà nước do Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 24 đề ra.
Ngày 25 - 4 - 1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tiến hành trong cả nước. Hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số cử tri) đi bầu cử.
Từ ngày 24-6 đến ngày 3 - 7 - 1976, Quốc hội khóa VI của nước Việt Nam thống nhất họp kì đầu tiên tại Hà Nội.

Quốc hội bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bầu Ban dự thảo Hiến pháp.Quốc hội thông qua chính sách đối nội và đối ngoại của nước Việt Nam thống nhất. Quốc hội quyết định lấy tên nước ta là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ ngày 2 - 7 - 1976), quyết định Quốc huy, Quốc kì là cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Thủ đô là Hà Nội, thành phố Sài Gòn - Gia Định đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh.
Ở địa phương, Quốc hội quyết định tổ chức thành ba cấp chính quyền : cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, cấp huyện và tương đương, cấp xã và tương đương, ở mỗi cấp chính quyền có Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân.
Với kết quả của kì họp thứ nhất Quốc hội khóa VI, công việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã hoàn thành. Từ đây, việc tiếp tục hoàn thành thống nhất trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ gắn liền với việc thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước.

Sau chiến thắng chống Mĩ, nước ta tiếp tục đối mặt với âm mưu của tập đoàn Pôn pốt

B.T sưu tầm, SGK Sử 9
Sau chiến thắng chống Mĩ, nước ta tiếp tục đối mặt với âm mưu của tập đoàn Pôn pốt

Do có âm mưu từ trước, ngay sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, tập đoàn Pôn Pốt ở Cam-pu-chia đã quay súng bắn vào nhân dân ta. Chúng liên tiếp mở những cuộc hành quân khiêu khích dọc biên giới, lấn chiếm lãnh thổ nước ta. 

Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980)
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới : giai đoạn đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng họp tại Hà Nội tháng 12 - 1976 đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước, quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch Nhà nước 5 năm ( 1976 - 1980).
Trong 5 năm này, nước ta thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa, vừa xây dựng đất nước vừa cải tạo quan hệ sản xuất nhằm hai mục tiêu cơ bản : xây dựng một bước cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.
Sau chiến thắng chống Mĩ, nước ta tiếp tục đối mặt với âm mưu của tập đoàn Pôn pốt - Ảnh 1.
Sau thống nhất, nhân dân ta bắt đầu thời kì xây dựng đất nước
Sau 5 năm, nhân dân ta đạt được những thành tựu rất quan trọng về mọi mặt.
- Các cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị địch bắn phá. Về cơ bản đã được khôi phục xong và bước đầu phát triển. Diện tích gieo trồng tăng thêm gần 2 triệu hécta. Nhiều nhà máy được gấp rút xây dựng. Giao thông vận tải được khôi phục và xây dựng mới 1700 km đường sắt, 3800 km đường bộ. Tuyến đường sắt Thống nhất từ Hà Nội đi Thành phố Hồ Chí Minh sau 30 năm bị gián đoạn đã hoạt động trở lại.
- Cải tạo xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh trong các vùng mới giải phóng ở miền Nam : giai cấp tư sản mại bản bị xóa bỏ, đại bộ phận nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, thủ công nghiệp và thương nghiệp được sắp xếp và tổ chức lại.
- Xóa bỏ những biểu hiện của văn hóa phản động, xây dựng nền văn hóa mới cách mạng. Giáo dục ở các cấp mẫu giáo, phổ thông, đại học đều phát triển. Năm học 1979 -1980, tính chung số người đi học thuộc các đối tượng trong cả nước là 15 triệu, tăng hơn năm học 1976 -1977 là 2 triệu.
Sau chiến thắng chống Mĩ, nước ta tiếp tục đối mặt với âm mưu của tập đoàn Pôn pốt - Ảnh 2.
Cuộc sống người dân sau chiến tranh được cải thiện dù vẫn còn nhiều khó khăn
Tuy nhiên, nền kinh tế của ta sau 5 năm vẫn còn mất cân đối lớn, sản xuất phát triển chậm, thu nhập quốc dân và năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981 - 1985)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp tháng 3 - 1982 khẳng định tiếp tục đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước do Đại hội IV đề ra, nhưng có sự điều chỉnh, bổ sung và cụ thể hóa cho từng chặng đường, từng giai đoạn để phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Đại hội V xác định thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trải qua nhiều chặng, gồm chặng đường đầu tiên và những chặng đường tiếp sau.
Đại hội quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981 - 1985 ).
Sau chiến thắng chống Mĩ, nước ta tiếp tục đối mặt với âm mưu của tập đoàn Pôn pốt - Ảnh 3.
Nhà máy thủy điện Hòa Bình 1980
Trong 5 năm này, nước ta phát triển thêm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân nhằm cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu của đời sống nhân dân, giảm nhẹ những mặt cân đối nghiêm trọng nhất của nền kinh tế.
Sau 5 năm thực hiện kế hoạch Nhà nước, đất nước đã có những chuyển biến và tiến bộ đáng kể.
- Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, đã chặn được đà giảm sút của 5 năm trước (1976 -1980) và có bước phát triển : Năm 1981 -1985, sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,9% so với 1,9% của thời kì 1976 - 1980 ; sản xuất lương thực tăng bình quân hàng năm từ 13,4 triệu tấn trong thời kì 1976 - 1980, lên 17 triệu tấn, sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 9,5% so với 0,6% của thời kì 1976 - 1980. Thu nhập quốc dân tăng bình quân hàng năm là 6,4% so với 0.4% của 5 năm trước.
- Về xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, đã hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn, hàng nghìn công trình vừa và nhỏ. Dầu mỏ bắt đầu được khai thác, công trình thủy điện Hòa Bình, thủy điện Trị An được khẩn trương xây dựng, chuẩn bị đi vào hoạt động.
- Các hoạt động khoa học - kĩ thuật được triển khai, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, những khó khăn yếu kém của 5 năm trước vẫn chưa được khắc phục, thậm chí có phần trầm trọng hơn, mục tiêu cơ bản là ổn định tình hình kinh tế, xã hội vẫn chưa thực hiện được.
Đấu tranh bảo vệ biên giới Tây – Nam
Do có âm mưu từ trước, ngay sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, tập đoàn Pôn Pốt ở Cam-pu-chia đã quay súng bắn vào nhân dân ta. Chúng liên tiếp mở những cuộc hành quân khiêu khích dọc biên giới, lấn chiếm lãnh thổ nước ta.
Ngày 22 - 12 - 1978, tập đoàn Pôn Pốt huy động 19 sư đoàn bộ binh cùng với nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng tiến đánh Tây Ninh, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lấn biên giới Tây - Nam nước ta.
Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, quân dân ta tổ chức cuộc phản công đánh đuổi quân Pôn Pốt. Cuộc chiến tranh biên giới Tây - Nam nhanh chóng chấm dứt. Toàn bộ quân xâm lược Pôn Pốt bị quét khỏi nước ta, hòa bình được lập lại trên toàn tuyến biên giới Tây - Nam.



theo Helino

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét