Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

Nguồn gốc vua Lý Công Uẩn: Sự huyền ảo của lời sấm lạ

(Kiến Thức) - Có nhiều bài thơ, bài sấm dự đoán trước việc Lý Công Uẩn lên ngôi. Theo các nhà nghiên cứu sử học, đó chỉ là một hình thức vận động chính trị.

Có nhiều bài thơ, bài sấm dự đoán trước việc Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Nhưng thực ra, theo các nhà nghiên cứu sử học, đó chỉ là một hình thức vận động chính trị của một nhóm người. Trong đó, đứng đầu là thiền sư Vạn Hạnh ở châu Cổ Pháp.
Vận động chính trị bằng sấm
Theo PGS.TS Trần Thị Băng Thanh, nếu giải thích ngắn gọn nhất thì sấm có nghĩa là triệu, tức điềm báo. Theo từ điển, có bốn mục phát sinh từ sấm. Một là sấm bộ: Là thuật pháp để biết được điều chưa đến, những sự việc sẽ xảy ra trong tương lai. Hai là sấm ký: Sách ghi chép lời sấm. Ba là sấm ngữ: Dự báo, tiên báo về tương lai. Bốn là sấm vĩ: Là loại sách chiêm nghiệm về thuật số. Nhưng thực ra, sấm và vĩ là hai loại sách khác nhau. Sấm mới là lời dự báo, còn vĩ chỉ là lời chú giải các kinh sách, trong đó có cả Kinh dịch mà sau này người ta vẫn dùng để bói.

Nguon goc vua Ly Cong Uan: Su huyen ao cua loi sam la
Tượng thiền sư Vạn Hạnh trên núi Tiêu. 
Sau nhiều năm nghiên cứu và phân tích, PGS.TS Trần Thị Băng Thanh khẳng định, hiện tượng tiên báo, dự báo đầu đời Lý thuộc loại sấm ngữ. Sấm ngữ đầu đời Lý khá nhiều, và người nổi tiếng hơn cả là thiền sư Vạn Hạnh. Khi thấy vận mệnh của nhà Tiền Lê sắp hết, Vạn Hạnh đã cùng Đào Cam Mộc tham gia nhiệt tình trong cuộc vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua.
Vạn Hạnh đã trực tiếp viết lời “khuyến”: “Gần đây, tôi thấy lời sấm lạ, biết rằng họ Lý cường thịnh tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ, người họ Lý rất nhiều nhưng không ai bằng Thân vệ (chức của Lý Công Uẩn lúc đó), là người khoan từ, nhân thứ, lại được lòng dân chúng, mà binh quyền nắm trong tay”.
Tuy Vạn Hạnh nói: “Tôi thấy lời sấm lạ”, nhưng cũng chính Vạn Hạnh đặt ra lời sấm: Cá tam nguyệt chi nội/Thân vệ đăng trụ xã tắc/Lạc trà ấn quốc tự/Thập khẩu thủy khổ thứ/Ngộ thánh hiệu Thiên Đức.
Các nhà nghiên cứu đều đồng ý, về mặt thời gian, đây là lời đoán sát sạt. Người đương thời chỉ chờ ba tháng để thấy sự linh nghiệm, nhưng cái huyền ảo của bài sấm lại nằm ở câu thứ ba: Lạc trà ấn quốc tự.
Nguon goc vua Ly Cong Uan: Su huyen ao cua loi sam la-Hinh-2
Đình làng Dương Lôi, nơi các sấm ngữ mô tả sự ra đời của Lý Công Uẩn. 
Chuyện từ 10 chiếc khánh
Trở về với thế kỷ thứ VII, đầu thế kỷ VIII khi thiền sư Định Không dựng một ngôi chùa ở làng Dịch Bảng đã đào được 10 chiếc khánh và một lư hương. Khi đem rửa có một chiếc khánh bị chìm mất. Ông bèn hứng khởi nói: Mười chiếc (thập khẩu) là chữ Cổ, một chiếc rơi chìm đi (thủy khứ) là chữ Pháp. Sau đó, Định Không đặt tên đất là Cổ Pháp cùng một bài thơ, cũng là lời tiên đoán người Cổ Pháp làm vua.
Và Định Không đã dặn học trò Thông Thiện để sau này truyền lại cho các đệ tử phá bùa yểm của dị nhân Cao Biền. Sau này, Đinh La Quý An đã phá bùa yểm ở 19 huyệt đạo và cho đúc một tượng Lục Tổ bằng vàng chôn gần tam quan chùa, lại trồng một cây gạo và để lại bài kệ.
Khi sét đánh vào cây gạo để lại bài sấm mà Vạn Hạnh đã ngầm đoán rồi theo một cuộc vận động chính trị làm tiếp một bài kệ nữa: “Gốc lê chìm bể Bắc/Chồi lý mọc trời Nam/Bốn phương tan giáo mác/Tám cõi được bình an”.
“Đến đây thì chuyện Lê, Lý đã được khẳng định và nói rõ ra rồi. Lời sấm cũng chỉ còn khoác một cái vỏ mảng manh mà thôi. Chính sử cũng đã từng nhận xét Vạn Hạnh là người có công lớn trong việc chuẩn bị dư luận cho nhà Lý thay nhà Lê, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân đương thời”, PGS.TS Trần Thị Băng Thanh cho biết.
Nguon goc vua Ly Cong Uan: Su huyen ao cua loi sam la-Hinh-3
Bia đá chùa Cha Lư còn ghi lại một số bài sấm. 
Điều gì tạo nên sấm?

“Người trong nước ai cũng bảo họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi, đó là cái họa không thể che giấu được nữa. Chuyển họa làm phúc, chỉ có thể sớm chiều thôi”, lời viên quan Chi hậu Đào Cam Mộc khuyên Lý Công Uẩn lên ngôi vua.
Các nhà nghiên cứu thắc mắc, cái gì đã tạo nên sấm? Phải chăng chính là hiện trạng xã hội? Chính Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người có nhiều tiên đoán chính xác từng thừa nhận: “Tự đắc kinh yên hoàn hữu sử”, tức muốn vận dụng được nguyên lý trong kinh phải nhờ có sử.
Thiền sư Vạn Hạnh đóng vai trò cố vấn triều đình thì chắc hẳn không thể không thấy những bạo tàn ngang ngược của Lê Ngọa Triều. “Như vậy sấm còn liên quan tiên đoán một cách thiên bẩm, mà những người như Vạn Hạnh hay Nguyễn Bỉnh Khiêm ngoài cái trời cho đó còn phải kể đến tu tập (Vạn Hạnh thi hành tổng trì, Nguyễn Bỉnh Khiêm am hiểu lý học Thái ất Thần kinh – PV), cùng sự hiểu biết sâu sắc thời cuộc”, PGS.TS Trần Thị Băng Thanh cho hay.
Tuy nhiên, cái mà cho đến nay nhiều người băn khoăn tại sao thiền sư Vạn Hạnh là người xuất gia, lại nặng sự trần mà vận động chính trị đè bẹp người này, nâng đỡ người kia? Phải chăng thiền sư Vạn Hạnh cũng chưa thoát được bụi trần chẳng khác nào “đức thánh Láng” Từ Đạo Hạnh sau này?
Sau khi đã tạo được cơ sở vững chắc để cho Lý Công Uẩn lên ngôi – sư Vạn Hạnh đã trực tiếp làm công tác tư tưởng cho vị Thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Chúng ta đều biết khi vua Lê Trung Tông bị giết năm 1006, quần thần trốn hết, chỉ có Lý Công Uẩn ôm thây vua khóc lóc. 

Nguon goc vua Ly Cong Uan: Su huyen ao cua loi sam la-Hinh-4
PGS.TS Trần Thị Băng Thanh cho rằng, những bài sấm là cách vận động chính trị đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. 
Sự khóc lóc của Lý Công Uẩn được một số sử gia đánh giá là chưa chắc đã phải thương vua mà thương cho phận mình khi nhận ngôi vua khó tránh khỏi quan niệm cướp ngôi.
Nắm bắt tâm lý ấy, Vạn Hạnh đã phân tích cho Lý Công Uẩn qua những bài sấm: “Gần đây tôi thấy lời sấm lạ, biết rằng nhà Lê tất phải mất mà nhà Lý tất phải lên. Họ Lý không ai nhân trí, khoan dung như ông, lại được lòng dân”.
Lý Công Uẩn lên ngôi vua dời đô ra Thăng Long. Để củng cố thêm địa vị cho Lý Công Uẩn, thiền sư Vạn Hạnh tiếp tục đưa ra những bài thơ mang tính định mệnh. Sách “Thiền quyển tập anh” chép rằng, ban đêm khi ngồi thiền tĩnh tọa, sư Vạnh Hạnh thường nghe thấy trong mộ thân phụ Lý Công Uẩn có tiếng ngâm thơ. Vạn Hạnh cho chép lại được 4 bài, mỗi bài làm theo một hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc.
“Có thể thấy những bài sấm, bài thơ trước và sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi đã có tác dụng tuyên truyền tích cực, gây ảnh hưởng và tạo dư luận trong quần chúng và triều đình”.
PGS.TS Trần Băng Thanh
Trần Hòa

Giả thuyết mới về nguồn gốc vua Lý Công Uẩn

(Kiến Thức) - Lý Công Uẩn là vị hoàng đế để lại nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử về nguồn gốc. Gần đây đã có những nghiên cứu mới về nguồn gốc của vị vua này.

Lý Công Uẩn là vị hoàng đế để lại nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử về nguồn gốc. Sự kiện Lý Công Uẩn không có cha cụ thể, mà là con của “thần nhân” là kết quả vận động chính trị của giới trí thức tam giáo, đứng đầu là nhà sư Vạn Hạnh. Gần đây đã có những nghiên cứu mới về nguồn gốc của vị Thái Tổ nhà Lý này.
Con của “thần nhân”
Cuộc hôn nhân có ý đồ tại chùa Thiên Tâm, núi Tiêu Sơn giữa bà Phạm Thị Ngà với “vị thần nhân” - một người họ Lý đang ẩn tích đã được tiến hành do thiền sư Vạn Hạnh làm chủ hôn. 
Nhà nghiên cứu lịch sử Trần Viết Điền sau rất nhiều tìm hiểu lẫn đối chứng qua các tư liệu chính sử và dã sử đã đi đến kết luận về cuộc hôn nhân giữa bà Phạm Thị Ngà và “thần nhân” mà kết quả là sự ra đời của Lý Công Uẩn, điều đó đã thỏa được những khao khát của một dân tộc đang đón chờ Thiên tử. 
Theo ông Điền, thiền sư Vạn Hạnh tạo điều kiện cho bà Phạm Thị Ngà vào rừng gặp “thần nhân”, một cuộc hôn nhân bí mật, trong đó cha của Lý Công Uẩn có thể là một người đầy uy vọng của họ Lý vùng Cổ Pháp - Siêu Loại, tức Diên Uẩn - Thổ Lỗi, đang trong thời kỳ phải mai danh ẩn tích. 
Gia thuyet moi ve nguon goc vua Ly Cong Uan
Nhiều người cho rằng, Lý Công Uẩn ra đời là sự “hoài thai” của nhân dân. 
Sự kiện bà mẹ Lý Công Uẩn phải vào rừng sinh sống, rồi khi đứa bé lên 3, bà phải gửi con cho nhà sư Lý Khánh Văn nuôi dạy và cuối cùng giao cho sư Vạn Hạnh đào tạo chú bé thành hoàng đế, có thể là cơ sở của giả thuyết vừa nêu. 
Cũng theo ông Điền, giả thuyết nói Lý Công Uẩn là con ruột của sư Vạn Hạnh thì quá ư táo bạo và bị các nhà sử học bác bỏ. Một vùng đất có nhiều phật tử như Cổ Pháp - Siêu Loại thì không thể mù quáng đảnh lễ một vị quốc sư đứng vào hàng tam bảo lại làm việc phạm giới luật. 
Cuộc vận động chính trị
Cuộc chuyển giao quyền lực từ họ Lê đã mất lòng dân, sang họ Lý phản ánh một xu thế mới là thay chế độ quân trị sang nhân trị. Thực ra, việc Lý Vạn Hạnh lãnh đạo lớp trí thức tam giáo mà nòng cốt là trí thức Phật giáo cùng nhau giáo dưỡng và làm cuộc vận động để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua
Đó là sự kế thừa “tâm nguyện” trăm năm kể từ thời thuộc Đường. Ấy là “củng cố và phát triển miền Cổ Pháp, đưa những người con cháu của vọng tộc Lý lên ngôi vua, vừa tạo độc lập dân tộc Việt mà cũng chấn hưng đạo pháp” của thiền sư Định Không (730 - 808).
Nhà nước Văn Lang sụp đổ, dân tộc Việt phải chịu ách đô hộ của phong kiến phương Bắc. Dẫu vài lần quật khởi, tưởng chừng nối được quốc thống, nhưng thời gian độc lập quá ngắn, phải lo chống giữ, không đủ vật lực tài lực để vun bồi văn hoá giáo dục, nên nước ta chậm phát triển vào thời Bắc thuộc.
Vì lẽ đó mà triều Ngô, chưa có sự nghiệp đáng kể thì đất nước vấp phải loạn thập nhị sứ quân. Triều Đinh cũng chưa tạo được một cộng đồng thuần hậu thì gặp nạn tôi giết vua; để lại di chứng ấy cho Tiền Lê với Lê Long Đĩnh giết anh giành ngôi, làm việc lỗi đạo.
Các triều vua Đinh Lê bó hẹp trong vùng núi Ninh Bình, rất lợi thế về quân sự nhưng không đủ sức tạo nên một kinh đô Hoa Lư phát triển toàn diện. Trong khi đó, thời bấy giờ đã có một Phong Khê với bề dày văn hoá Văn Lang, một trung tâm Phật giáo Luy Lâu - Thuận Thành.
Đại bộ phận nhân dân có nhu cầu bức thiết về văn hoá, có khát vọng về một minh quân, biết đáp ứng lòng dân. Và Lý Công Uẩn đã xuất hiện kịp thời để đáp ứng nhu cầu bức thiết ấy. 
Theo đánh giá của các nhà sử học, Lý Công Uẩn không phải là con thần cháu thánh như truyền thuyết, cũng chẳng phải là con của ngọc hoàng thượng đế mà là một vị vua được nhân dân “hoài thai” suốt một thời đau đáu; được giáo dưỡng đầy tâm huyết của lớp trí thức tam giáo tiến bộ thế kỷ X.
Giới trí thức tiến bộ lúc bấy giờ, đứng đầu là thiền sư Vạn Hạnh, phải chọn lựa một con đường cho dân tộc. Trong tam giáo thì phải thừa nhận Phật giáo là mạnh nhất về cả tinh thần lẫn vật chất. Nho giáo chưa có lực lượng quần chúng rộng lớn; hơn nữa việc học theo Khổng Mạnh lúc bấy giờ ít nhiều đồng lõa với phương Bắc. 
Gia thuyet moi ve nguon goc vua Ly Cong Uan-Hinh-2
Chùa Dận, nơi các thiền sư nổi tiếng như Định Không, Vạn Hạnh tu hành. 
Thỏa khát vọng
Lý Thái Tổ cùng cố vấn Vạn Hạnh đã có những quyết sách đúng đắn, biết dụng thời, tuỳ thế đưa Đại Việt phát triển bền vững, tạo dựng nền móng cho một thời Lý – Trần độc lập tự chủ, ngẩng cao đầu với lân bang, kéo dài khoảng 400 năm.
Khi lên ngôi, Lý Thái Tổ cho dựng rất nhiều chùa và độ diệp cho hàng vạn vị sư. Thực ra lúc bấy giờ, chùa là trường học, các sư là thầy giáo của một đường hướng giáo dục. Các phật tử đến chùa trước lễ Phật, sau nghe thuyết pháp để trí tuệ được mở mang mà lòng thiện cũng được xiển dương. 
Vùng Ninh Bình, cái nôi của kinh đô Hoa Lư chỉ thích hợp cho việc thủ hiểm về mặt quân sự, nhưng không thể là đầu mối giao thông, không thể là nơi đắc dụng của thương nghiệp, không là nơi tụ hội những trí thức giỏi, nghĩa là không đủ tiền đề cho sự mở mang đất nước. 
“Vì thế cho nên, giới lãnh đạo họ Lý phải dời đô ra thành Đại La. Thành này đâu chỉ là cát địa theo thuyết phong thuỷ, mà còn là trung tâm của một vùng văn hoá. Dẫu thành Đại La một thời là đô hộ phủ của những quan thứ sử nhưng nó còn là nơi hội tụ anh tài hoạt động trên mọi lĩnh vực”, ông Điền cho hay.
Khi Lý Thái Tổ quyết định rời bỏ Hoa Lư để ra Đại La là một sự bùng vỡ ý thức đã nung nấu từ lâu. Kinh đô Thăng Long của Đại Việt tự chủ ra đời, hợp lòng người, hợp địa lợi và đạt lẽ nhân hoà. Những quyết định của vị vua sáng lập triều Lý đã thỏa niềm niềm khát vọng dân tộc Việt từ mấy trăm năm trước.
Lý Công Uẩn đã xuất hiện đầy huyền thoại như vậy nhưng cũng vì những huyền thoại ấy mà sự thật về gốc gác của ông cho đến cả ngàn năm sau vẫn là một dấu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa mãn.
“Nếu Lý Công Uẩn không phải là con đẻ thì cũng chính là đứa con tinh thần của thiền sư Vạn Hạnh. Vạn Hạnh không chỉ là người đạo dẫn đời sống tâm linh mà còn là một người chỉ đạo hành động của vua quan và dân chúng đương thời. Ông có kiến thức rộng và hành động trong tinh thần tự do phá chấp của đạo Phật”.
cố GS Trần Quốc Vượng (trích trong “Nhà Lý và văn minh Đại Việt”)

“Đúng là có thuyết nói Lý Công Uẩn là con thiền sư Vạn Hạnh nên không được ở trong chùa mà giao cho Lý Khánh Văn giúp đỡ. Sách “Thiên Nam ngữ lục” nói rất rõ về điều này, nhưng chúng ta chỉ coi đó là một giả thuyết”.
TS Lê Viết Nga (Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh)
Trần Hòa


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét