TTO - Thông thạo 26 thứ tiếng lúc 25 tuổi, Trương Vĩnh Ký khiến nhà văn Pháp Émile Littré (1801-1881) kinh ngạc: "Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của P. Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh anh như một nhà bác ngữ học (bác học ngôn ngữ) bậc nhất thời nay".
Tượng Trương Vĩnh Ký ở một góc công viên Thống Nhất nhìn ra nhà thờ Đức Bà năm 1969 (hiện được đặt ở Bảo Tàng Mỹ Thuật TP.HCM) - Ảnh tư liệu
Ngay từ thập kỷ 50 - 60 của thế kỷ XIX, Trương Vĩnh Ký, một người Việt Nam đã thông thạo nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á cũng như các ngôn ngữ khác trên thế giới, như các thứ tiếng: Campuchia, Thái Lan, Lào, Malaysia, Myanmar, Chăm, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hi Lạp, Latin… để giao lưu và hội nhập dễ dàng với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thần đồng tự học nhiều hơn ở trường
Trương Vĩnh Ký từ lúc lọt lòng mẹ (6-12-1837) ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thành cho đến lúc qua đời (1-9-1898) ở Chợ Quán, Sài Gòn đã trải qua bao cơn sóng gió.
Cha ông là cụ Trương Chánh Thi, quê quán Bình Định, vào Nam lập nghiệp ở một khu vực đất Vĩnh Long (nay khu vực này thuộc Bến Tre).
Cha ông là một nhà Nho học, thích thi phú, được bổ nhiệm làm lãnh binh dưới triều Minh Mạng của nhà Nguyễn, mất lúc Trương Vĩnh Ký 3 tuổi.
Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Châu, một người mẹ hiền và lam lũ, sinh một gái và hai trai.
3 tuổi, ông thuộc làu Tam tự kinh. 4 tuổi, ông học viết. 5 tuổi (năm 1842) cắp sách đến trường học chữ Nho, chữ Nôm với thầy giáo Học.
Sau vài ba năm, ông thông suốt Minh Tâm Bửu Giám, đọc Tứ thư, Ngũ kinh, thuộc nhiều thơ Đường, thơ Tống...
Ngoài ra, theo lời những người thân hậu bối, lúc nhỏ ông còn thuộc nhớ nhiều bài ca dao dài mà người lớn không biết. Cậu bé Ký đọc sách mà người cha mang từ miền Trung vào như Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Minh Đạo Gia Huấn, thơ Đường, thơ Tống...
Học tiếng La tinh với bạn Lào, Thái, Miến, Nhật, Trung..., học luôn tiếng bạn bè
Sau khi ông Trương Chánh Thi chết, một nhà truyền giáo thường được mọi người gọi là Cố Tám đã chỉ dạy cho cậu bé Trương Vĩnh Ký học chữ Latin, chữ Nôm và ít chữ sau này gọi chữ “Quốc ngữ“.
Ông nhận thấy cậu Ký còn nhỏ mà có đầu óc thông minh hơn người, chỉ biết thú đọc sách hơn đi chơi đùa, có chí cầu tiến, đã gửi cậu Ký cho một người Pháp tên Borelle (tên Việt Nam là Thừa Hòa) ở Cái Nhum (Vĩnh Long) nhận nuôi dạy Trương Vĩnh Ký về tiếng Latin và tiếng Pháp năm 1846.
Rồi ông Thừa Hòa phải đi xa nên đã nhờ một người Pháp tên là Bouilleaux (tên Việt Nam là Cố Long) lo hộ việc nuôi dưỡng và học hành của cậu Ký.
Năm 11 tuổi (1848), Trương Vĩnh Ký được Cố Long gởi đến học tại Pinhalu (Phnom Penh, Campuchia) được xây cất ở giữa một rừng thốt nốt hoang vu gần sông Mekong và cách Phnom Penh độ 6 dặm, dành cho cả vùng Đông Nam Á và Trung Hoa.
Lớp học có 25 học sinh từ 13-15 tuổi và Trương Vĩnh Ký là người nhỏ nhất. Trương Vĩnh Ký gặp gỡ, ăn ở chung với học sinh các nước Đông Nam Á như: Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ciampois (Chăm)… Kết quả: cậu thiếu niên 13 tuổi Ký đã nói và viết thông thạo các ngôn ngữ kể trên của các bạn cùng trường.
Trương Vĩnh Ký còn học ngoại ngữ ở các sách và tự điển có trong thư viện của nhà trường. Các nhà ngôn ngữ học đương thời cho rằng Trương Vĩnh Ký đã tự tìm ra những quy luật ngữ pháp giống nhau, khác nhau của các tiếng nước ngoài để học nhanh và dễ dàng.
Vào ngày mãn khóa học ở chủng viện Pinhalu, Trương Vĩnh Ký được chọn là một học sinh xuất sắc, đỗ đầu lớp và được tuyển lựa cùng hai người nữa để tiếp tục đi học ở đảo Penang, Malaysia.
Năm 14 tuổi (1851), Trương Vĩnh Ký tiếp tục được gởi vào trường ở Poulo Penang (một hòn đảo nhỏ trên vùng Nam Dương, thuộc Malaysia, nơi người Hoa và thổ dân Malaysia sống bằng kỹ nghệ khai thác mỏ kẽm.
Khi đến nơi, Trương Vĩnh Ký rất ngạc nhiên khi thấy một vùng đảo ở vùng Đông Nam Á mà có nếp sinh hoạt cơ giới ồn ào, một sự phát triển lạ thường mà ông chưa từng thấy ở nước mình và Cao Miên.
Trong khoảng thời gian 7 năm theo học tại đây, Trương Vĩnh Ký học chuyên ngữ Latin và Hi Lạp. Ngoài ra, ông còn học nâng cao các thứ tiếng khác như Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha, Malaysia, Nhật, Hi Lạp, Thái Lan, Pháp, Ý…
Trong thời gian ở Penang, tài năng, đầu óc và trí tuệ thông minh của Trương Vĩnh Ký phát huy tột độ. Ông học một hiểu mười nhờ trí nhớ lâu dài, sách vở ở thư viện và giảng dạy của nhà trường.
Ông đọc rất nhiều sách Hán, Pháp, Anh, Hi Lạp, Tây Ban Nha... Ông tiếp nhận được rất nhiều tư tưởng, kiến thức của người xưa cả Đông và Tây nhờ trí thông minh, khả năng ngôn ngữ và trí nhớ đặc biệt của mình.
Trong thời gian theo học tại Penang, Trương Vĩnh Ký tự học tiếng Nhật, Ấn bằng cách cắt các báo cũ, rồi dùng phương pháp đối chiếu, diễn dịch mà tìm ra các mẹo luật văn phạm.
Nhà nhiếp ảnh người Anh là J.Thomson viết quyển “Mười năm du lịch Trung Quốc và Đông Dương”, trong đó có đoạn: “Một hôm đến thăm Trương Vĩnh Ký, tôi thấy ông đang soạn sách Phân tích so sánh các ngôn ngữ chủ yếu trên thế giới, tác phẩm này ông bỏ ra nhiều năm làm việc cần cù. Chung quanh ông đầy những quyển sách quý và hiếm mà ông tìm kiếm được ở châu Âu, châu Á…”.
Với trí thông minh, sự sắc sảo thiên bẩm và chí phấn đấu cao, lại chịu khó tìm tòi, tự học trong một ngôi trường đa sắc tộc, nên Trương Vĩnh Ký đã thông thạo các ngoại ngữ phổ biến ở khu vực lúc bấy giờ.
Như vậy, việc học ngoại ngữ của Pétrus Ký được thực hiện một cách khoa học; có phân tích, đối chiếu giữa các thứ tiếng. Và trên hết là sự lao động miệt mài, công phu, chứ không đơn thuần chỉ dựa vào trí thông minh như nhiều người nghĩ.
Càng khâm phục hơn khi biết rằng việc học tập của ông vô cùng vất vả, nhiều ngoại ngữ ông học từ chính những người bạn học của mình, đúng như ông bà ta thường nói: “Học thầy không tày học bạn”.
Viết sách dạy những tiếng Pháp lẫn nhiều tiếng trong Asean ngày nay
Trương Vĩnh Ký thông thạo và nắm vững quy luật học các ngoại ngữ của các quốc gia trong khu vực và đã truyền kinh nghiệm của mình qua việc xuất bản sách. Vào cuối thập niên 1880, ông đã xuất bản sách dạy tiếng Thái Lan, Campuchia.
Đến năm 1892, ông soạn được ba bộ sách dạy tiếng Miến Điện (tức Myanmar ngày nay): Cours de langue birmane, Vocabulaire français-birman, Guide de la conversation birman[e]-français. Từ năm 1893, ông tiếp tục xuất bản sách dạy tiếng Lào, Malay, Tamoule (Tamil?), Ciampois (Chàm).
Émile Littré, nhà văn Pháp, năm 1862 đã viết: “Trên trái đất này rất khó tìm ra người thứ hai say mê ngôn ngữ như Trương Vĩnh Ký. Gặp người Anh, Trương Vĩnh Ký nói bằng tiếng Anh nhuần nhị như người Luân Đôn. Tiếp xúc với người Ý Đại Lợi, người Y Pha Nho, người Bồ Đào Nha... hay người Nhựt Bổn, Mã Lai, Xiêm... Trương Vĩnh Ký đều nói đúng theo âm luật của kinh đô nước đó... Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của P. Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh anh như một nhà bác ngữ học vào bậc nhất của thời nay”.
Năm 1874, Trương Vĩnh Ký đã được thế giới bình chọn là “nhà bác học về ngôn ngữ”, nằm trong danh sách 18 nhà bác học thế giới của thế kỷ XIX, được ghi tên vào các danh nhân thế giới trong Tự điển Larousse.
Chân dung Trương Vĩnh Ký - Ảnh tư liệu
Tượng Trương Vĩnh Ký đặt ở Bến Tre hiện nay
Một trong những sách dạy ngoại ngữ của nhà bác học Trương Vĩnh Ký - Ảnh tư liệu
Lễ khánh thành tượng Trương Vĩnh Ký ngày 24-12-1927 ở một góc công viên Thống Nhất trên đường Norodom (nay là đường Lê Duẩn). Tượng do nhà yêu nước Trần Chánh Chiếu quyên góp khắp Nam Kỳ lục tỉnh để xây dựng - Ảnh tư liệu
TTO - Thông thạo 26 thứ tiếng lúc 25 tuổi, Trương Vĩnh Ký khiến nhà văn Pháp Émile Littré (1801-1881) kinh ngạc: "Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của P. Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh anh như một nhà bác ngữ học (bác học ngôn ngữ) bậc nhất thời nay".
Tượng Trương Vĩnh Ký ở một góc công viên Thống Nhất nhìn ra nhà thờ Đức Bà năm 1969 (hiện được đặt ở Bảo Tàng Mỹ Thuật TP.HCM) - Ảnh tư liệu |
Ngay từ thập kỷ 50 - 60 của thế kỷ XIX, Trương Vĩnh Ký, một người Việt Nam đã thông thạo nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á cũng như các ngôn ngữ khác trên thế giới, như các thứ tiếng: Campuchia, Thái Lan, Lào, Malaysia, Myanmar, Chăm, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hi Lạp, Latin… để giao lưu và hội nhập dễ dàng với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thần đồng tự học nhiều hơn ở trường
Trương Vĩnh Ký từ lúc lọt lòng mẹ (6-12-1837) ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thành cho đến lúc qua đời (1-9-1898) ở Chợ Quán, Sài Gòn đã trải qua bao cơn sóng gió.
Cha ông là cụ Trương Chánh Thi, quê quán Bình Định, vào Nam lập nghiệp ở một khu vực đất Vĩnh Long (nay khu vực này thuộc Bến Tre).
Cha ông là một nhà Nho học, thích thi phú, được bổ nhiệm làm lãnh binh dưới triều Minh Mạng của nhà Nguyễn, mất lúc Trương Vĩnh Ký 3 tuổi.
Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Châu, một người mẹ hiền và lam lũ, sinh một gái và hai trai.
3 tuổi, ông thuộc làu Tam tự kinh. 4 tuổi, ông học viết. 5 tuổi (năm 1842) cắp sách đến trường học chữ Nho, chữ Nôm với thầy giáo Học.
Sau vài ba năm, ông thông suốt Minh Tâm Bửu Giám, đọc Tứ thư, Ngũ kinh, thuộc nhiều thơ Đường, thơ Tống...
Ngoài ra, theo lời những người thân hậu bối, lúc nhỏ ông còn thuộc nhớ nhiều bài ca dao dài mà người lớn không biết. Cậu bé Ký đọc sách mà người cha mang từ miền Trung vào như Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Minh Đạo Gia Huấn, thơ Đường, thơ Tống...
Học tiếng La tinh với bạn Lào, Thái, Miến, Nhật, Trung..., học luôn tiếng bạn bè
Sau khi ông Trương Chánh Thi chết, một nhà truyền giáo thường được mọi người gọi là Cố Tám đã chỉ dạy cho cậu bé Trương Vĩnh Ký học chữ Latin, chữ Nôm và ít chữ sau này gọi chữ “Quốc ngữ“.
Ông nhận thấy cậu Ký còn nhỏ mà có đầu óc thông minh hơn người, chỉ biết thú đọc sách hơn đi chơi đùa, có chí cầu tiến, đã gửi cậu Ký cho một người Pháp tên Borelle (tên Việt Nam là Thừa Hòa) ở Cái Nhum (Vĩnh Long) nhận nuôi dạy Trương Vĩnh Ký về tiếng Latin và tiếng Pháp năm 1846.
Rồi ông Thừa Hòa phải đi xa nên đã nhờ một người Pháp tên là Bouilleaux (tên Việt Nam là Cố Long) lo hộ việc nuôi dưỡng và học hành của cậu Ký.
Năm 11 tuổi (1848), Trương Vĩnh Ký được Cố Long gởi đến học tại Pinhalu (Phnom Penh, Campuchia) được xây cất ở giữa một rừng thốt nốt hoang vu gần sông Mekong và cách Phnom Penh độ 6 dặm, dành cho cả vùng Đông Nam Á và Trung Hoa.
Lớp học có 25 học sinh từ 13-15 tuổi và Trương Vĩnh Ký là người nhỏ nhất. Trương Vĩnh Ký gặp gỡ, ăn ở chung với học sinh các nước Đông Nam Á như: Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ciampois (Chăm)… Kết quả: cậu thiếu niên 13 tuổi Ký đã nói và viết thông thạo các ngôn ngữ kể trên của các bạn cùng trường.
Trương Vĩnh Ký còn học ngoại ngữ ở các sách và tự điển có trong thư viện của nhà trường. Các nhà ngôn ngữ học đương thời cho rằng Trương Vĩnh Ký đã tự tìm ra những quy luật ngữ pháp giống nhau, khác nhau của các tiếng nước ngoài để học nhanh và dễ dàng.
|
Vào ngày mãn khóa học ở chủng viện Pinhalu, Trương Vĩnh Ký được chọn là một học sinh xuất sắc, đỗ đầu lớp và được tuyển lựa cùng hai người nữa để tiếp tục đi học ở đảo Penang, Malaysia.
Năm 14 tuổi (1851), Trương Vĩnh Ký tiếp tục được gởi vào trường ở Poulo Penang (một hòn đảo nhỏ trên vùng Nam Dương, thuộc Malaysia, nơi người Hoa và thổ dân Malaysia sống bằng kỹ nghệ khai thác mỏ kẽm.
Khi đến nơi, Trương Vĩnh Ký rất ngạc nhiên khi thấy một vùng đảo ở vùng Đông Nam Á mà có nếp sinh hoạt cơ giới ồn ào, một sự phát triển lạ thường mà ông chưa từng thấy ở nước mình và Cao Miên.
Trong khoảng thời gian 7 năm theo học tại đây, Trương Vĩnh Ký học chuyên ngữ Latin và Hi Lạp. Ngoài ra, ông còn học nâng cao các thứ tiếng khác như Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha, Malaysia, Nhật, Hi Lạp, Thái Lan, Pháp, Ý…
Trong thời gian ở Penang, tài năng, đầu óc và trí tuệ thông minh của Trương Vĩnh Ký phát huy tột độ. Ông học một hiểu mười nhờ trí nhớ lâu dài, sách vở ở thư viện và giảng dạy của nhà trường.
Ông đọc rất nhiều sách Hán, Pháp, Anh, Hi Lạp, Tây Ban Nha... Ông tiếp nhận được rất nhiều tư tưởng, kiến thức của người xưa cả Đông và Tây nhờ trí thông minh, khả năng ngôn ngữ và trí nhớ đặc biệt của mình.
Trong thời gian theo học tại Penang, Trương Vĩnh Ký tự học tiếng Nhật, Ấn bằng cách cắt các báo cũ, rồi dùng phương pháp đối chiếu, diễn dịch mà tìm ra các mẹo luật văn phạm.
|
Nhà nhiếp ảnh người Anh là J.Thomson viết quyển “Mười năm du lịch Trung Quốc và Đông Dương”, trong đó có đoạn: “Một hôm đến thăm Trương Vĩnh Ký, tôi thấy ông đang soạn sách Phân tích so sánh các ngôn ngữ chủ yếu trên thế giới, tác phẩm này ông bỏ ra nhiều năm làm việc cần cù. Chung quanh ông đầy những quyển sách quý và hiếm mà ông tìm kiếm được ở châu Âu, châu Á…”.
Với trí thông minh, sự sắc sảo thiên bẩm và chí phấn đấu cao, lại chịu khó tìm tòi, tự học trong một ngôi trường đa sắc tộc, nên Trương Vĩnh Ký đã thông thạo các ngoại ngữ phổ biến ở khu vực lúc bấy giờ.
Như vậy, việc học ngoại ngữ của Pétrus Ký được thực hiện một cách khoa học; có phân tích, đối chiếu giữa các thứ tiếng. Và trên hết là sự lao động miệt mài, công phu, chứ không đơn thuần chỉ dựa vào trí thông minh như nhiều người nghĩ.
Càng khâm phục hơn khi biết rằng việc học tập của ông vô cùng vất vả, nhiều ngoại ngữ ông học từ chính những người bạn học của mình, đúng như ông bà ta thường nói: “Học thầy không tày học bạn”.
Viết sách dạy những tiếng Pháp lẫn nhiều tiếng trong Asean ngày nay
Trương Vĩnh Ký thông thạo và nắm vững quy luật học các ngoại ngữ của các quốc gia trong khu vực và đã truyền kinh nghiệm của mình qua việc xuất bản sách. Vào cuối thập niên 1880, ông đã xuất bản sách dạy tiếng Thái Lan, Campuchia.
Đến năm 1892, ông soạn được ba bộ sách dạy tiếng Miến Điện (tức Myanmar ngày nay): Cours de langue birmane, Vocabulaire français-birman, Guide de la conversation birman[e]-français. Từ năm 1893, ông tiếp tục xuất bản sách dạy tiếng Lào, Malay, Tamoule (Tamil?), Ciampois (Chàm).
Émile Littré, nhà văn Pháp, năm 1862 đã viết: “Trên trái đất này rất khó tìm ra người thứ hai say mê ngôn ngữ như Trương Vĩnh Ký. Gặp người Anh, Trương Vĩnh Ký nói bằng tiếng Anh nhuần nhị như người Luân Đôn. Tiếp xúc với người Ý Đại Lợi, người Y Pha Nho, người Bồ Đào Nha... hay người Nhựt Bổn, Mã Lai, Xiêm... Trương Vĩnh Ký đều nói đúng theo âm luật của kinh đô nước đó... Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của P. Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh anh như một nhà bác ngữ học vào bậc nhất của thời nay”.
Năm 1874, Trương Vĩnh Ký đã được thế giới bình chọn là “nhà bác học về ngôn ngữ”, nằm trong danh sách 18 nhà bác học thế giới của thế kỷ XIX, được ghi tên vào các danh nhân thế giới trong Tự điển Larousse.
Chân dung Trương Vĩnh Ký - Ảnh tư liệu |
Tượng Trương Vĩnh Ký đặt ở Bến Tre hiện nay |
Một trong những sách dạy ngoại ngữ của nhà bác học Trương Vĩnh Ký - Ảnh tư liệu |
Lễ khánh thành tượng Trương Vĩnh Ký ngày 24-12-1927 ở một góc công viên Thống Nhất trên đường Norodom (nay là đường Lê Duẩn). Tượng do nhà yêu nước Trần Chánh Chiếu quyên góp khắp Nam Kỳ lục tỉnh để xây dựng - Ảnh tư liệu |
Hồn xưa, nhà xưa Trương Vĩnh Ký lặng lẽ giữa Sài Gòn
TTO - Ở góc ngã tư Trần Hưng Đạo - Trần Bình Trọng (Q.5, TP.HCM) có một khu đất rộng hơn 2.000m2 được bao quanh bởi vách tường cao với cổng ra vào mang số 520 đường Trần Hưng Đạo.
Cổng nhà Trương Vĩnh Ký - Ảnh: Hồ Tường
Nhà bác học Trương Vĩnh Ký theo Tây học, đạo Thiên Chúa nhưng chiếc cổng nhà ông khi tạ thế lại có kiến trúc theo kiểu tam quan của các ngôi chùa Phật giáo: một cửa chính ở giữa và hai cửa phụ nhỏ hơn hai bên, khiến không ít người lầm tưởng đây là cổng ra vào của một ngôi đình, ngôi miếu cổ kính.
"Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi"
Cổng được xây dựng có ba tầng mái, lợp ngói ống, những góc mái cong lên giống như những tàu đao của các đình, chùa trên đất Bắc. Tuy nhiên khi nhìn kỹ, người ta sẽ thấy một cây thánh giá trang trí trên nóc cổng.
Ngay sau cổng tam quan là một căn nhà xây dựng theo hình bát giác, với diện tích khoảng 50m2. Căn nhà xây theo kiểu Pháp, được trang trí với các họa tiết Đông Tây kết hợp rất hài hòa và mỹ thuật.
Ngói vảy cá được lợp trên tám cạnh mái của căn nhà. Trên những đường viền nối các mái đều trang trí đắp nổi hình rồng theo kiểu long hồi, với đuôi rồng hướng lên nóc mái, thân rồng uốn lượn theo đường viền, đầu rồng bên dưới ngước lên tạo nên những tàu đao kèm với biểu tượng thánh giá…
Trong tám cạnh của căn nhà, ngoài ba cạnh là cửa vào căn nhà, còn lại là những bức tường có trổ ô thông gió.
Không phải ai cũng biết có một thân phận đặc biệt đang yên nghỉ bên trong căn nhà hình bát giác này vì đây là nhà mồ của Trương Vĩnh Ký.
Chính Trương Vĩnh Ký đã đích thân thiết kế và coi sóc việc xây dựng nhà mồ cho mình cho đến khi ông tạ thế. Trên nóc nhà mồ còn chạm dòng chữ: “Decembre 1898” (tháng 12 -1898) cũng là năm ông mất.
Trên cửa nhà mồ quay ra đường Trần Hưng Đạo có dòng chữ Latin: “Miseremini Mei Saltem vos Amici Mei” (tạm dịch: Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi), nói lên ước nguyện cuối đời của Trương Vĩnh Ký khiến người ta nhớ đến hai câu thơ của Nguyễn Du: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” (tạm dịch: Không biết ba trăm năm sau, có ai trong thiên hạ khóc cho Tố Như không?).
Còn trên cửa nhà mồ quay ra đường Trần Bình Trọng có ghi dòng chữ Latin:“Fons Vitae Eruditio Possidentis” (tạm dịch: Tri thức là nguồn sống cho ai sở hữu nó) nói lên sự đam mê khám phá tri thức lúc sinh thời của nhà bác học họ Trương.
Ba phần mộ nằm phẳng trên đất
Trong nhà mồ, ngay chính giữa căn nhà là ba phần mộ được lát bằng phẳng với nền nhà, với ba tấm đá khác màu có chiều rộng khoảng 1m, dài khoảng 2m, nằm dọc trước đài thờ sát tường cuối nhà.
Mộ cụ Trương Vĩnh Ký ở chính giữa, là tấm đá trắng đã ngả sang màu vàng nhạt, được trang trí quanh viền bằng một dây lá (không có hoa) đơn giản, trong vòng dây lá đó được khắc vài dòng chữ: “Ci-git J.B Truong Vinh Ky Professeur de Langues Orientales Décédé J le 1er Septembre 1898 dans sa 62 année” (Nơi an nghỉ J.B Petrus Trương Vĩnh Ký, 2 chữ viết tắt là tên thánh Jean Baptiste. Giáo sư ngôn ngữ Đông phương. Mất ngày 1.9.1898, thọ 62 tuổi).
Cuốn sổ bình sanh công với tội - Tìm nơi thẩm phán để thừa khai
Thơ Trương Vĩnh Ký viết lúc sắp tạ thế
Trên bia mộ này không ghi ngày tháng năm sinh của ông (6-12-1837) nhưng lại ghi rõ ngày ông mất 1-9-1898.
Nằm bên phải mộ Trương Vĩnh Ký là mộ phần của vợ ông, bà Vương Thị Thọ, đã có nhiều chỗ bị tróc hỏng.
Mất sau chồng đến chín năm, nhưng bia mộ bà Vương Thị Thọ lại bị thời gian làm phai mòn nhiều hơn. Bà yên nghỉ dưới phiến đá màu nâu đỏ đã ngả màu sậm có nhiều vết nứt, vỡ cùng năm tháng.
Giữ đúng đạo “xuất giá tòng phu” xưa, dòng đầu trên bia mộ cụ bà mang tên chồng là Maria Trương Vĩnh Ký. Dòng nhỏ dưới mới khắc tên mình là Vương Thị Thọ mất năm 1907 và không trang trí một hoa văn nào ngoài hình cây thánh giá.
Nằm bên trái cha, tình trạng bia mộ người con Trương Vĩnh Thế cũng bị nhiều vết hư hại của thời gian. Cao phía bên trên phần mộ của Trương Vĩnh Ký, trần nhà mồ được vẽ hình một con lân mã chở hà đồ đang vờn trong vòng tròn mây gió. Hình ảnh tám con rồng trên nóc và con lân mã chở hà đồ trên trần trong nhà mồ như muốn nói lên chủ trương vẫn lưu giữ nền tảng phương Đông của nhà bác học họ Trương…
Ngôi nhà Sài Gòn cổ 130 năm do chính Trương Vĩnh Ký xây dựng
Bên ngoài nhà mồ, phía bên phải cổng phía đường Trần Hưng Đạo, trên khuôn viên khu đất còn lại có một ngôi nhà mái lợp fibrô ximăng giả ngói. Trên nóc có trang trí hình tượng trái bầu hồ lô với dòng chữ “6 Decembre 1937” (6-12-1937).
Theo con cháu cụ Trương, ngôi nhà này do đích thân Trương Vĩnh Ký chỉ huy xây dựng nằm 1886. Ngôi nhà nằm ven bờ kênh Bến Nghé, nằm bên đại lộ Gallieni, nay là đường Trần Hưng Đạo để đọc sách, dạy học trò cũng như làm việc những ngày cuối đời. Vùng đất này ngày xưa gọi là Chợ Quán, quê vợ Trương Vĩnh Ký.
Căn nhà hiện nay vốn được trùng tu lại từ năm 1937, nhân dịp lễ giỗ lần thứ 39 của Trương Vĩnh Ký, chỉ xây lại tường bao quanh thay cho vách ván trước đây. Bên trong nhà vẫn giữ lại bộ khung gỗ của kiểu nhà xuyên trính, có ba gian hai chái, với 24 cây cột gỗ, khá quen thuộc trong dân gian Việt Nam.
Hương án thờ Trương Vĩnh Ký - Ảnh: Hồ Tường
Gian giữa căn nhà là một hương án đơn sơ thờ tượng bán thân của Trương Vĩnh Ký bằng thạch cao, sơn đen, giữa hai bóng đèn điện đặt hai bên trái phải. Trên tượng là sắc phong của vua nhà Nguyễn ban cho Trương Vĩnh Ký.
Mặt tiền hương án là hai tủ kính đặt đối xứng hai bên trái phải, trước đây vốn là nơi lưu giữ hình ảnh và khoảng 120 quyển sách và bản thảo của Trương Vĩnh Ký để lại, nhưng một số đã tặng cho Viện Khảo cổ miền Nam và một số khác đã chuyển sang Pháp cho thân nhân tiếp tục lưu giữ trong năm 1975.
Cao hai bên hương án là cặp câu đối khắc chìm trên đôi liễn hình máng xối mang nội dung chủ trương “văn dĩ tải đạo” (văn vốn để chở đạo lý) của Trương Vĩnh Ký. Chiếm trọn phân nửa hai gian trái phải là hai căn buồng nhỏ, vách ván, vốn là phòng ngủ của gia đình họ Trương xưa nay. Phần còn lại rộng rãi của căn nhà là nơi làm việc, đọc sách, dạy học và tiếp khách xưa kia của Trương Vĩnh Ký.
Căn nhà vẫn còn giữ được dàn cửa gỗ cổ xưa làm theo kiểu “thượng song, hạ bản” (trên là chấn song, dưới là tấm ván), giúp nội thất căn nhà vừa sáng sủa khi đóng cửa cũng như mát mẻ trong mùa nóng và ấm áp trong mùa lạnh.
Ngôi nhà gỗ này hiện là nơi cư ngụ của gia đình ông Trương Minh Đạt, vốn là cháu gọi Trương Vĩnh Ký là ông cố, có trách nhiệm trông nom di tích của tiền nhân.
(Ngoài ra, trong khuôn viên khu đất hiện nay còn khoảng 60 ngôi mộ lộ thiên, không có nhà mồ, của dòng họ Trương Vĩnh và một căn nhà khác).
Trở ra đường Trần Hưng Đạo, bất cứ người khách nào đến viếng di tích Trương Vĩnh Ký cũng đều có cảm giác bùi ngùi khi không thấy bất cứ tấm bảng chỉ dẫn nào cho biết đây vốn là nơi yên nghỉ của Trương Vĩnh Ký - một người Việt Nam đã sử dụng thông thạo 26 ngoại ngữ sẵn sàng hội nhập cùng khu vực và thế giới, từng được vinh danh một trong 18 nhà bác học của cả hành tinh trong thế kỷ 19.
Ngôi nhà do chính cụ Trương Vĩnh Ký chỉ huy xây dựng năm 1886. Ảnh chụp năm 1889, khi cụ Ký còn sống, ba năm sau khi xây dựng. Cậu bé trong hình là con trai cụ Ký (Trương Vĩnh Thế - mộ ông Trương Vĩnh Thế hiện nằm cạnh phần mộ cha mẹ)? Trong hình chụp, phía sau nhà còn hai mái nhà cao hơn, có thể ngay trong khuôn viên nhà...
Mặt tiền nhà của Trương Vĩnh Ký. Quần áo phơi ngay trước hàng hiên nhà là của một hộ dân không thuộc dòng họ Trương Vĩnh Ký ở sau năm 1975 - Ảnh: Hồ Tường
Nhà mồ Trương Vĩnh Ký, cửa hướng ra đường Trần Bình Trọng. Trên cửa có dòng chữ Latin: “Miseremini Mei Saltem vos Amici Mei” (tạm dịch: Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi) nói lên ước nguyện cuối đời của Trương Vĩnh Ký. Đây là một câu trích từ Sách của Job (19:21-27) trong Cựu ước, nói về Job bị Thượng đế và loài người lìa bỏ - Ảnh: Hồ Tường
Mộ phần Trương Vĩnh Ký. Chính giữa là tấm đá trắng đã ngả vàng nhạt, trang trí quanh viền bằng một dây lá (không có hoa) đơn giản, trong vòng dây lá đó được khắc vài dòng chữ: “Ci-git J.B Truong Vinh Ky, Professeur de Langues Orientales, Décédé J le 1er Septembre 1898 dans sa 62 année” (Nơi an nghỉ J.B Petrus Trương Vĩnh Ký, hai chữ viết tắt là tên thánh Jean Baptiste. Giáo sư ngôn ngữ Đông phương. Mất ngày 1.9.1898, thọ 62 tuổi) - Ảnh: Hồ Tường
Hình vẽ long mã phụ hà đồ (long mã chở hà đồ) trên trần nhà mồ Trương Vĩnh Ký, một hình vẽ hoàn toàn phương Đông: Theo truyền thuyết xưa của Trung Quốc, trên sông Hoàng Hà xuất hiện con long mã trên mình có đồ (Đường vẽ ngoằn nghoèo) gọi là Hà đồ. Hình vẽ long mã chạy từ hướng Đông sang Tây nhưng đầu ngoảnh lại hướng Đông. Cụ Trương Vĩnh Ký hẳn rất nhiều ẩn ý, tâm sự khi đưa bức họa này vô nhà mồ của mình? - Ảnh: Hồ Tường
Mộ phần bà Vương Thị Thọ - Ảnh: Hồ Tường
Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh: Nếu cụ Võ Trường Toản là "Hậu tổ" của Nho học ở đất Gia Định thì cụ Trương Vĩnh Ký là bậc tiền hiền của chữ quốc ngữ trong toàn cõi đất Việt.
Nhà văn Vũ Ngọc Phan: Người ta thấy ông rõ là một nhà bác học có óc tổ chức và có phương pháp....
Học giả Nguyễn Văn Tố: (Trương vĩnh Ký) Bác học, Tâm thuật, Khiêm tốn
HỒ TƯỜNG
TTO - Ở góc ngã tư Trần Hưng Đạo - Trần Bình Trọng (Q.5, TP.HCM) có một khu đất rộng hơn 2.000m2 được bao quanh bởi vách tường cao với cổng ra vào mang số 520 đường Trần Hưng Đạo.
Nhà bác học Trương Vĩnh Ký theo Tây học, đạo Thiên Chúa nhưng chiếc cổng nhà ông khi tạ thế lại có kiến trúc theo kiểu tam quan của các ngôi chùa Phật giáo: một cửa chính ở giữa và hai cửa phụ nhỏ hơn hai bên, khiến không ít người lầm tưởng đây là cổng ra vào của một ngôi đình, ngôi miếu cổ kính.
"Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi"
Cổng được xây dựng có ba tầng mái, lợp ngói ống, những góc mái cong lên giống như những tàu đao của các đình, chùa trên đất Bắc. Tuy nhiên khi nhìn kỹ, người ta sẽ thấy một cây thánh giá trang trí trên nóc cổng.
Ngay sau cổng tam quan là một căn nhà xây dựng theo hình bát giác, với diện tích khoảng 50m2. Căn nhà xây theo kiểu Pháp, được trang trí với các họa tiết Đông Tây kết hợp rất hài hòa và mỹ thuật.
Ngói vảy cá được lợp trên tám cạnh mái của căn nhà. Trên những đường viền nối các mái đều trang trí đắp nổi hình rồng theo kiểu long hồi, với đuôi rồng hướng lên nóc mái, thân rồng uốn lượn theo đường viền, đầu rồng bên dưới ngước lên tạo nên những tàu đao kèm với biểu tượng thánh giá…
Trong tám cạnh của căn nhà, ngoài ba cạnh là cửa vào căn nhà, còn lại là những bức tường có trổ ô thông gió.
Không phải ai cũng biết có một thân phận đặc biệt đang yên nghỉ bên trong căn nhà hình bát giác này vì đây là nhà mồ của Trương Vĩnh Ký.
Chính Trương Vĩnh Ký đã đích thân thiết kế và coi sóc việc xây dựng nhà mồ cho mình cho đến khi ông tạ thế. Trên nóc nhà mồ còn chạm dòng chữ: “Decembre 1898” (tháng 12 -1898) cũng là năm ông mất.
Trên cửa nhà mồ quay ra đường Trần Hưng Đạo có dòng chữ Latin: “Miseremini Mei Saltem vos Amici Mei” (tạm dịch: Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi), nói lên ước nguyện cuối đời của Trương Vĩnh Ký khiến người ta nhớ đến hai câu thơ của Nguyễn Du: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” (tạm dịch: Không biết ba trăm năm sau, có ai trong thiên hạ khóc cho Tố Như không?).
Còn trên cửa nhà mồ quay ra đường Trần Bình Trọng có ghi dòng chữ Latin:“Fons Vitae Eruditio Possidentis” (tạm dịch: Tri thức là nguồn sống cho ai sở hữu nó) nói lên sự đam mê khám phá tri thức lúc sinh thời của nhà bác học họ Trương.
Ba phần mộ nằm phẳng trên đất
Trong nhà mồ, ngay chính giữa căn nhà là ba phần mộ được lát bằng phẳng với nền nhà, với ba tấm đá khác màu có chiều rộng khoảng 1m, dài khoảng 2m, nằm dọc trước đài thờ sát tường cuối nhà.
Mộ cụ Trương Vĩnh Ký ở chính giữa, là tấm đá trắng đã ngả sang màu vàng nhạt, được trang trí quanh viền bằng một dây lá (không có hoa) đơn giản, trong vòng dây lá đó được khắc vài dòng chữ: “Ci-git J.B Truong Vinh Ky Professeur de Langues Orientales Décédé J le 1er Septembre 1898 dans sa 62 année” (Nơi an nghỉ J.B Petrus Trương Vĩnh Ký, 2 chữ viết tắt là tên thánh Jean Baptiste. Giáo sư ngôn ngữ Đông phương. Mất ngày 1.9.1898, thọ 62 tuổi).
Trên bia mộ này không ghi ngày tháng năm sinh của ông (6-12-1837) nhưng lại ghi rõ ngày ông mất 1-9-1898.
Nằm bên phải mộ Trương Vĩnh Ký là mộ phần của vợ ông, bà Vương Thị Thọ, đã có nhiều chỗ bị tróc hỏng.
Mất sau chồng đến chín năm, nhưng bia mộ bà Vương Thị Thọ lại bị thời gian làm phai mòn nhiều hơn. Bà yên nghỉ dưới phiến đá màu nâu đỏ đã ngả màu sậm có nhiều vết nứt, vỡ cùng năm tháng.
Giữ đúng đạo “xuất giá tòng phu” xưa, dòng đầu trên bia mộ cụ bà mang tên chồng là Maria Trương Vĩnh Ký. Dòng nhỏ dưới mới khắc tên mình là Vương Thị Thọ mất năm 1907 và không trang trí một hoa văn nào ngoài hình cây thánh giá.
Nằm bên trái cha, tình trạng bia mộ người con Trương Vĩnh Thế cũng bị nhiều vết hư hại của thời gian. Cao phía bên trên phần mộ của Trương Vĩnh Ký, trần nhà mồ được vẽ hình một con lân mã chở hà đồ đang vờn trong vòng tròn mây gió. Hình ảnh tám con rồng trên nóc và con lân mã chở hà đồ trên trần trong nhà mồ như muốn nói lên chủ trương vẫn lưu giữ nền tảng phương Đông của nhà bác học họ Trương…
Ngôi nhà Sài Gòn cổ 130 năm do chính Trương Vĩnh Ký xây dựng
Bên ngoài nhà mồ, phía bên phải cổng phía đường Trần Hưng Đạo, trên khuôn viên khu đất còn lại có một ngôi nhà mái lợp fibrô ximăng giả ngói. Trên nóc có trang trí hình tượng trái bầu hồ lô với dòng chữ “6 Decembre 1937” (6-12-1937).
Theo con cháu cụ Trương, ngôi nhà này do đích thân Trương Vĩnh Ký chỉ huy xây dựng nằm 1886. Ngôi nhà nằm ven bờ kênh Bến Nghé, nằm bên đại lộ Gallieni, nay là đường Trần Hưng Đạo để đọc sách, dạy học trò cũng như làm việc những ngày cuối đời. Vùng đất này ngày xưa gọi là Chợ Quán, quê vợ Trương Vĩnh Ký.
Căn nhà hiện nay vốn được trùng tu lại từ năm 1937, nhân dịp lễ giỗ lần thứ 39 của Trương Vĩnh Ký, chỉ xây lại tường bao quanh thay cho vách ván trước đây. Bên trong nhà vẫn giữ lại bộ khung gỗ của kiểu nhà xuyên trính, có ba gian hai chái, với 24 cây cột gỗ, khá quen thuộc trong dân gian Việt Nam.
Gian giữa căn nhà là một hương án đơn sơ thờ tượng bán thân của Trương Vĩnh Ký bằng thạch cao, sơn đen, giữa hai bóng đèn điện đặt hai bên trái phải. Trên tượng là sắc phong của vua nhà Nguyễn ban cho Trương Vĩnh Ký.
Mặt tiền hương án là hai tủ kính đặt đối xứng hai bên trái phải, trước đây vốn là nơi lưu giữ hình ảnh và khoảng 120 quyển sách và bản thảo của Trương Vĩnh Ký để lại, nhưng một số đã tặng cho Viện Khảo cổ miền Nam và một số khác đã chuyển sang Pháp cho thân nhân tiếp tục lưu giữ trong năm 1975.
Cao hai bên hương án là cặp câu đối khắc chìm trên đôi liễn hình máng xối mang nội dung chủ trương “văn dĩ tải đạo” (văn vốn để chở đạo lý) của Trương Vĩnh Ký. Chiếm trọn phân nửa hai gian trái phải là hai căn buồng nhỏ, vách ván, vốn là phòng ngủ của gia đình họ Trương xưa nay. Phần còn lại rộng rãi của căn nhà là nơi làm việc, đọc sách, dạy học và tiếp khách xưa kia của Trương Vĩnh Ký.
Căn nhà vẫn còn giữ được dàn cửa gỗ cổ xưa làm theo kiểu “thượng song, hạ bản” (trên là chấn song, dưới là tấm ván), giúp nội thất căn nhà vừa sáng sủa khi đóng cửa cũng như mát mẻ trong mùa nóng và ấm áp trong mùa lạnh.
Ngôi nhà gỗ này hiện là nơi cư ngụ của gia đình ông Trương Minh Đạt, vốn là cháu gọi Trương Vĩnh Ký là ông cố, có trách nhiệm trông nom di tích của tiền nhân.
(Ngoài ra, trong khuôn viên khu đất hiện nay còn khoảng 60 ngôi mộ lộ thiên, không có nhà mồ, của dòng họ Trương Vĩnh và một căn nhà khác).
Trở ra đường Trần Hưng Đạo, bất cứ người khách nào đến viếng di tích Trương Vĩnh Ký cũng đều có cảm giác bùi ngùi khi không thấy bất cứ tấm bảng chỉ dẫn nào cho biết đây vốn là nơi yên nghỉ của Trương Vĩnh Ký - một người Việt Nam đã sử dụng thông thạo 26 ngoại ngữ sẵn sàng hội nhập cùng khu vực và thế giới, từng được vinh danh một trong 18 nhà bác học của cả hành tinh trong thế kỷ 19.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét