Thứ Ba, 1 tháng 3, 2016

Vườn Tao Đàn và chuyện tình buồn ở chùa Từ Ân

TTO - Ở trung tâm TP.HCM, chúng ta có một khu vườn rộng, đẹp, mát mẻ mà mọi người ai cũng biết với tên thường gọi là vườn Tao Đàn hay công viên Tao Đàn.
Vườn Tao Đàn và chuyện tình buồn ở chùa Từ Ân
Khu vực trung tâm vườn Tao Đàn ngày xưa - Ảnh: tư liệu
Đây là nơi thanh niên đến vui chơi, sinh hoạt, người già đi tập thể dục và cả những du khách tới thành phố cũng ghé qua để hưởng chút không khí trong lành. Đây cũng là một trong những lá phổi của thành phố đang ngày càng đông đúc, mịt mù khói bụi.
Song quá trình lịch sử của khu vườn này ra sao thì không phải ai cũng biết.  
Vườn Tao Đàn và lịch sử của chùa Từ Ân
Biên niên sử 300 năm Phật giáo Sài Gòn - Gia Định ghi nhận có hai ngôi chùa nằm ven phía nam thành Gia Định. Đó là chùa Từ Ân và chùa Khải Tường.
Xin mở ngoặc về phương hướng trong bài viết này. Chúng tôi dùng phương hướng theo ông Trịnh Hoài Đức, tác giả cuốn Gia Định thành thông chí, là hướng nam tính từ đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa về phía đường Cách Mạng Tháng Tám và phía đối hướng bắc là hướng Thị Nghè.
Hướng đông hướng về sông Sài Gòn (bến Bạch Đằng) và hướng tây là hướng đi về Tây Ninh. Hiện nay, cách định hướng có khác. Nếu định hướng theo cách hiện nay thì khó xác định được các cổ tích xưa và không trúng với các tư liệu xưa đã viết.
Chùa Khải Tường được các tài liệu xác định là khu vực có Bảo tàng Chứng tích chiến tranh và Trường Lê Quý Đôn, chúng tôi sẽ đề cập đến khi có dịp.
Còn chùa Từ Ân ở gần đó thì…
Năm Giáp Tý 1744, chúa Võ Vương chính thức xưng quốc vương và tổ chức Đàng Trong thành một nước ngang hàng với Đàng Ngoài của vua Lê - chúa Trịnh.
Võ Vương tiến hành cải cách hành chính, cải cách xã hội, sửa đổi cách ăn mặc và phong tục, phát động phong trào di dân mạnh để mở mang lãnh thổ, khuyến khích dân chúng ở miền Trung và vùng Đồng Nai di cư đến vùng Bến Nghé, Sài Gòn và Mỹ Tho.
Thiền sư Phật Ý - Linh Nhạc (1725-1821) theo di dân đến thôn Tân Lộc (nay thuộc khu chợ Đũi, Q.3, TP.HCM) lập thảo am, sau này trở thành chùa Từ Ân.
Một bạn đạo của thiền sư (chưa rõ pháp danh) lập thảo am ở gần, sau này trở thành chùa Khải Tường.
Năm 1802 (Nhâm Tuất), vua Gia Long cho trùng tu chùa Từ Ân ở thôn Hòa Hưng, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định và chùa Khải Tường ở gần đó.
Chùa Tư Ân nằm gần chùa Khải Tường nhưng là chỗ nào? Theo nhà nghiên cứu Trần Hồng Liên thì “Ngôi thảo am này nằm trong khu vực gần vườn Tao Đàn, sau này có tên là Từ Ân. Sau đó không lâu, người bạn tách riêng ra lập ngôi chùa khác đối diện với chùa Từ Ân là chùa Khải Tường” (Trần Hồng Liên - Chùa Từ Ân trong sự phát triển văn hóa ở Gia Định, Sài Gòn Xưa & Nay, Trẻ và tạp chí Xưa & Nay hợp tác xuất bản 2007) và chùa thành lập vào khoảng năm 1752.
Vị trí chùa Khải Tường theo bản đồ 3D năm 1881, nằm kế bên Trường Lê Quý Đôn và quay mặt ra đường Nguyễn Thị Minh Khai ngó sang dinh Độc Lập.
“Phía đối diện của nhà nghiên cứu Trần Hồng Liên” thì có thể nằm trong khuôn viên dinh Độc Lập hoặc chếch về hướng nam chút ít thì lọt vô vườn Tao Đàn, có thể nền chùa nay là khu vực Cung văn hóa Lao động thành phố. Nếu xa hơn nữa thì nền chùa Từ Ân phải nằm lọt trong vườn Tao Đàn và khu vực này có khả năng thuộc về chợ Đũi xưa.
Như vậy, vườn Tao Đàn là địa chỉ của chùa Từ Ân được nhiều tư liệu ghi nhận nhất, song chính xác là nơi nào thì… bó tay!
Và chùa này cũng cùng số phận với nhiều chùa khác, trong số có Khải Tường, đã bị quân Pháp biến thành doanh trại và bị phá hủy sau đó. Năm 1870, chùa Từ Ân “mới” được dựng lên ở đường Tân Hóa (quận 11) với nhiều hiện vật “cũ” của chùa Từ Ân xưa.
Chuyện tình của một hoàng cô
Như vậy có thể khẳng định vườn Tao Đàn hiện nay là khu vườn nằm trên phần đất của một ngôi chùa cổ ngày xưa, chùa Từ Ân.
Chùa chiền ngày xưa thường rộng rãi, có nhiều đất để các ni sư trồng cấy, sản xuất. Một dấu vết cũ của chùa là ngôi mộ của Lâm Tam Lang nằm ở giữa vườn Tao Đàn hiện nay.
Vườn Tao Đàn và chuyện tình buồn ở chùa Từ Ân
Một góc vườn Tao Đàn ngày xưa - Ảnh: tư liệu
Hiện người ta chưa biết Lâm Tam Lang là ai, hậu duệ thế nào, chôn cất tại đây khi nào? Từ đường Nguyễn Thị Minh Khai đi về phía Hòa Hưng, xưa là một nghĩa địa khổng lồ của Sài Gòn.
Song đất của vườn Tao Đàn không nằm trong số đó. Không phải nghĩa địa mà có mồ mả ắt là đất của chùa vì đất các chùa xưa thường là nơi chôn cất.
Theo Biên niên sử 300 năm Phật giáo Sài Gòn - Gia Định kể lại tóm tắt việc chùa Từ Ân từng xảy ra một câu chuyện tình buồn.
Nguyên hòa thượng Liên Hoa, một tăng cang chùa Thiên Mụ ở Huế, “bị” một vị hoàng cô Tế Minh -Thiên Nhựt (không rõ chị hay em vua Minh Mạng) là học trò của hòa thượng đem lòng yêu thương.
Sau khi biết hòa thượng Liên Hoa trốn vào Gia Định, bà hoàng cô liền tìm cách tìm gặp. Và dịp may đã đến.
Khi vua Minh Mạng có ý định vào Gia Định tạ lễ các chùa, bà xin đi và được chấp thuận là người đại diện vua vào Gia Định.
Cần nhớ rằng năm 1790 khi xây thành Gia Định, Nguyễn Ánh (sau là vua Gia Long) đã trú ngụ tại chùa Khải Tường.
Tại đây, một thứ phi của ông đã hạ sanh hoàng tử Đởm, chính là vua Minh Mạnh sau này. Vì vậy đối với Minh Mạng, các chùa ở Gia Định có một mối thiện cảm đặc biệt và cũng vì vậy mà sau khi lên ngôi, Minh Mạng đã phong cho chùa Khải Tường là Quốc Ân Khải Tường và Từ Ân là Sắc Tứ Từ Ân.
Khi hoàng cô vào Gia Định tế lễ thì trú ngụ tại chùa Từ Ân. Hòa thượng Liên Hoa sợ quá liền trốn lên chùa Đại Giác ở Biên Hòa để tránh tiếp xúc với hoàng cô.
Không ngờ bà hoàng cô này vì quá mê muội tình trường đã tìm lên chùa Đại Giác. Đêm đó, hòa thượng Liên Hoa đã tự thiêu để bảo toàn danh tiếng của một người tu hành và danh tiết cho hoàng cô.
Vài ngày sau, tháng 11-1833, hoàng cô Tế Minh - Thiên Nhựt uống thuốc độc tự tử.
Năm 1821 (Tân Tỵ) vua Minh Mạng sắc tứ cho hai chùa ở Gia Định: Quốc Ân Khải Tường (nơi vua sanh) và Sắc Tứ Từ Ân. Năm 1833 (Quý Mùi) hòa thượng Liên Hoa (hay tăng cang Thiệt Thành - Liễu Đạt) cáo chức tăng cang chùa Thiên Mụ để về trụ trì chùa Từ Ân. 
Năm 1862 (Nhâm Tuất) Sắc Tứ Từ Ân - tổ đình nổi tiếng nhất Nam bộ - bị suy sụp, cuối thế kỷ 19 dời về đường Tân Hóa (Q.11 ngày nay) (Theo Biên niên sử Phật giáo Gia Định - Sài Gòn - TP Hồ Chí Minh 1600-1992, NXB TP.HCM 2001).

Từ vườn Ông Thượng, vườn Bờ Rô đến Công viên Tao Đàn


TTO - Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, vườn Tao Đàn được người dân Sài Gòn đặt cho những tên gọi thân thương khác nhau vườn Ông Thượng, vườn Bờ Rô...
Từ vườn Ông Thượng, vườn Bờ Rô đến Công viên Tao Đàn
Vườn ông Thượng sục sôi trong những ngày Cách mạng tháng 8 năm 1945 - Ảnh tư liệu
Năm 1862, sau khi chiếm Sài Gòn - Gia Định, người Pháp tổ chức quy hoạch lại Sài Gòn. Và vùng rừng cây nằm ven Sài Gòn và cánh đồng Mồ Mả hay đồng Mả Ngụy được quy hoạch làm khu vườn cây xanh.
Ranh giới của khu vườn nầy là góc đường Thiên Lý phía Tây (đường Cách Mạng Tháng Tám) và đường Thiên Lý Bắc Nam (đường Nguyễn Thị Minh Khai).
Đến năm 1868, khi bắt đầu xây dựng dinh Độc Lập (hồi ấy gọi là Dinh Norodom hay Dinh Toàn quyền) thì khu vườn trở thành vườn cây của dinh.
Và có lẽ cũng từ khi ấy, người Sài Gòn quen miệng gọi vườn cây của Dinh Norodom là vườn Ông Thượng.
Có nhà nghiên cứu cho rằng sở dĩ có tên Vườn Ông Thượng vì nơi đây từng là nơi Tả Quân Lê Văn Duyệt mở trường đá gà, sân khấu hát bội.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng thời Quận công Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn đất Gia Định thì dinh thự của ông nằm trong thành Gia Định, ước khoảng khu đất nay là Sở Ngoại vụ TPHCM. Và đất của Vườn Tao Đàn ngày nay nằm ở ngoài thành, ven theo đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa.
Là người lãnh đạo cao nhứt Gia Định-khi đó Gia Định là vùng đất kéo dài từ Bình Thuận đến Cà Mau, ông Lê Văn Duyệt đâu rảnh mà ra ngoại thành “vui chơi” hoài. Nếu có thì cũng tổ chức đâu đó trong thành, chớ mỗi lần ông lớn đi là bầu đoàn thê tử đông đảo rất mất công và tốn kém.
Phần nữa là từ khi ông mất cho đến khi Vườn Tao Đàn hình thành thời gian quá lâu, từ 1832 đến 1868, hơn 30 năm thì hai chữ “ông Thượng” có lẽ không dành cho ngài Tả quân.
Cái tên “Vườn Ông Thượng” có từ cuối thế kỷ 19. Rất có thể tên nầy xuất phát từ khi dinh Độc Lập xây cất xong trở thành dinh Thống đốc Nam Kỳ và vườn trở thành khu “vườn sau dinh”.
Xưa, dân gian quen gọi nơi cư ngụ hoặc làm việc của các quan lớn là “ông thượng”, “quan thượng”. Ví dụ, Nha nội vụ (Le Directeur de l’interiéur) được gọi một cách bình thường là “dinh quan Thượng lại” hoặc “Lại bộ thượng thơ”.
Xưa Gia Định Báo, tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của nước ta, được thực hiện và phát hành tại Nha nội vụ và chính tờ báo nầy viết “Ai muốn mua thì tới dinh quan Thượng lại tại Sài Gòn cho người ta biên tên, mua trót năm thì giá 20 francs, mua 6 tháng thì 10 francs, mà mua 3 tháng thì 5 francs”.
Như vậy, ba chữ “Vườn Ông Thượng” có lẽ không hề chỉ một ông quan tây hay ta cụ thể nào mà chỉ là cách “nói trỏng”, nói “xách mé” của dân gian về khu vườn của thành phố mà coi như là “của riêng” của các quan!
Đây cũng chỉ là ước đoán của chúng tôi rất mong những bực thức giả góp ý thêm.
Từ vườn Ông Thượng, vườn Bờ Rô đến Công viên Tao Đàn
Vườn Maurice Long 1948 (công viên Tao Đàn ngày nay) - Ảnh tư liệu.
Năm 1869, người Pháp mở con đường Miss Clavell (nay là đường Huyền Trân Công Chúa) tách khu vườn ra khỏi dinh Độc Lập.
Từ đó, Vườn hoa thành phố hay Vườn ông Thượng nằm gọn giữa bốn con đường Verdun (Lê Văn Duyệt nay là Cách mạng Tháng Tám) - Tabert (Nguyễn Du) - Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai) và Miss Clavell chính thức có tên là “jardin de la ville” vườn hoa thành phố.
Trong vườn có một khoảng ở trung tâm được lót gạch, có lẽ vì vậy mà dân chúng lại gọi là Vườn Bờ Rô (préau tiếng Pháp nghĩa là "sân lót gạch"). Tuy nhiên cũng có có nguồn giải thích từ Bờ -rô xuất phát từ từ chữ jardin des beaux jeux mà ra. 
Đến năm 1955, sau khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, vườn được chính quyền Sài Gòn đổi tên thành Vườn Tào Đàn và nay là Công viên Tao Đàn.
Vườn Tao Đàn rộng khoảng hơn 90.000m2 (trước khi xây dựng các cơ sở chung quanh thì vườn rộng 10 mẩu tây) với nhiều loại cây quí hiếm, lạ. Ví dụ như cây sa la ít được trồng ở các công viên trong thành phố.
Xưa Sài Gòn có đường Amiral Roze, tên một thống đốc Nam Kỳ, từ Lê Lai đến Nguyễn Du lúc đầu tên là Calmette, năm 1920 thì đổi tên thành Amiral Roze.
Từ đường Nguyễn Thị Minh Khai đến Kỳ Đồng có con đường đầu tiên mang tên “jardins” (vườn hoa). Giữa hai đường Roze và Jardin có một con đường nối xuyên qua vườn Ông Thượng.
Năm 1955, cả hai đường đều đổi tên, Roze thành Trương công Định, còn Jardin (từ năm 1897 mang tên là Larégnère) thành Đoàn Thị Điểm.
Từ ngày 18-4-1975 cả hai đường trở thành Trương Định nhưng đoạn đi qua vườn Tao Đàn vẫn còn ngăn cách. Đến năm 2003, hai con đường mới thông nhau thành một.
Sau năm 1975, Vườn Tao Đàn trở thành Công viên Văn Hoá và nơi đây ghi dấu kỷ niệm của biết bao người. Sáng sáng chiều chiều người già người trẻ ra đây để đi dạo, tập thể dục, hẹn hò, ngắm cảnh, hóng mát…
Từ năm 1985, Công viên Văn Hoá Tao Đàn là nơi đầu tiên “mở sân khấu ca nhạc ngoài trời” để biểu diễn phục vụ cho người dân yêu âm nhạc thành phố và người phụ trách sân khấu này là ông Lê Hoàng, nguyên Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ. 
Ngày nay, Công viên là một địa điểm xanh quen thuộc của người dân thành phố đến đây ngắm cảnh, đi dạo, chơi thể thao, tham gia các hoạt động mỹ thuật, giải trí, hội hoa xuân...
Từ vườn Ông Thượng, vườn Bờ Rô đến Công viên Tao Đàn
Nhiều bạn trẻ chụp ảnh lưu niệm giữa thảm cỏ xanh ở Tao Đàn. Ảnh tư liệu.
Từ vườn Ông Thượng, vườn Bờ Rô đến Công viên Tao Đàn
Một gia đình chụp ảnh kỷ niệm khi tham quan Công viên Tao Đàn. Ảnh tư liệu.

Vườn Tao Đàn - nơi ra đời sân banh đầu tiên của Sài Gòn

15/12/2015 11:16 GMT+7
TTO - Đến đầu thế kỷ 20, người Việt mới tiếp cận thật sự với môn đá banh. Nhưng từ năm 1890, khoảng đất trống ở vườn Tao Đàn đã trở thành sân banh đầu tiên của Sài Gòn.
Vườn Tao Đàn - nơi ra đời sân banh đầu tiên của Sài Gòn
Hội Kỵ mã nằm ngay góc đường Nguyễn Du - Cách Mạng Tháng Tám (sân khấu Trống Đồng hiện nay)
Có lẽ công trình được xây dựng đầu tiên ở vườn Tao Đàn chính là sân banh Tao Đàn. Khoảng năm 1890, đã có các trận đá banh giao hữu giữa các đội của quân đội Pháp và các tàu hàng hoặc tàu chiến của Pháp, Anh… và các nước Tây Âu tới Sài Gòn.
Những công trình quanh vườn Tao Đàn
Và khoảng đất trống ở vườn Tao Đàn đã trở thành sân banh đầu tiên của Sài Gòn. Thuở ấy, hầu hết cầu thủ đều là người nước ngoài, còn dân ta chỉ làm khán giả ngồi coi và cổ vũ thôi.
Đến đầu thế kỷ 20, người Việt mới tiếp cận thật sự môn đá banh và năm 1907 mới có đội (xưa gọi là Hội banh) banh đầu tiên ra đời.
Đó là đội Ngôi Sao Xanh và Gia Định Sports. Về sau hai đội này đã hợp nhất lại thành đội Ngôi Sao Gia Định nổi tiếng một thời.
Năm 1896, tại vườn Tao Đàn còn có một cuộc đua "xe máy" đáng kể. Gia Định Báo số ra ngày 8-12-1896 thông báo “Thành phố Saigon chúa nhựt ngày 13 décembre 1896 cuộc đua xe máy tại vườn ông Thượng. Lời rao: Trong cuộc đua xe máy tại vườn ông Thượng là ngày 13 décembre 1896 và cũng dùng người Annam đua xe máy thì phân làm ba hạng. Hạng nhứt 8$. Hạng 2e 4$. Hạng 3e 2$. Những người Annam ai muốn đua sẽ tới trước ngày thứ năm mồng 10 décembre, đến nhà ông Bonade và công ty số 7,9 đường d’Ormay và nhà ông Migot, số 38 boulevard Charner, đặng viết tên vào sổ cho biết người nào muốn đua. Ai muốn đua phải tựu tại nhà ông ấy người sẽ dạy mấy cách đua cho mà biết. Ông làm đầu hội đua xe máy. Bonade”.
“Xe máy” thời kỳ này thật ra chính là xe đạp hiện nay. Xe đạp được phát minh vào năm 1790 và sau rất nhiều cải tiến của nhiều người thì hoàn chỉnh như ngày nay vào thập niên 1890.
Đến năm 1896, xe đạp nhập vô Sài Gòn không bao nhiêu, có lẽ không có nhiều xe đạp ở Sài Gòn cũng như lục tỉnh.
Vì vậy, có thể đây là cuộc đua xe đạp đầu tiên của nước ta. Rất tiếc báo không tường thuật lại nên chúng ta không rõ cuộc đua này diễn ra như thế nào và có những ai tham gia, ai thắng cuộc…
Nơi "sinh hoạt thể thao"
Năm 1896, người ta xây dựng trụ sở Hội Hiếu nhạc trên đất vườn mặt đường Tabert (Nguyễn Du) nay là Nhạc viện TPHCM.
Năm sau, ngay kế bên Hội Hiếu nhạc người ta xây dựng trụ sở của  Hội Tam Điểm, một hội bí mật của người Tây phương sau này có người Việt tham gia, nay là tòa soạn báo Công An TP.HCM.
Đối diện trụ sở Hội Hiếu nhạc và Hội Tam Điểm là một biệt thự khá nổi tiếng vào những thập niên đầu thế kỷ 20.
Đó là biệt thự của nhà cự phú Nguyễn Hữu Hào, cha của bà Nguyễn Hữu Thị Lan, người phụ nữ thứ hai được phong hoàng hậu của triều Nguyễn với tước vị Nam Phương hoàng Hậu.
Từ năm 1862, Sài Gòn đã có một câu lạc bộ thể thao dành cho sĩ quan Pháp, nơi hiện nay là UBND quận 1.
Năm 1896, để có nơi dành riêng cho người có tiền của Sài Gòn “sinh hoạt thể thao”, một câu lạc bộ thể thao được thành lập lấy tên là Cercle  Sportif  Saigonnais (câu lạc bộ thể thao Sài Gòn, viết tắt là CSS), người Sài gòn quen gọi là Xẹc. Ngày nay Xẹc chính là Cung văn hóa Lao Động TPHCM. 
Ban đầu, Xẹc chỉ có khu vực trung tâm nằm trên đường Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay. Năm 1902, trên cơ sở đó người ta xây thêm sân quần vợt, hồ bơi, sân đá banh… Trước đó, sân đá banh đã có nhưng không đúng tiêu chuẩn.
Năm 1926, chính quyền cho xây thêm Hội dục nhi ở góc đường Chasseloup Laubat-Verdun (Nguyễn Thị Minh Khai - Cách Mạng Tháng Tám) để giáo dục trẻ em (nay là Sở Y tế).
Vườn Tao Đàn - nơi ra đời sân banh đầu tiên của Sài Gòn
Hội dục nhi ở góc đường Chasseloup Laubat-Verdun (Nguyễn Thị Minh Khai - Cách mạng Tháng Tám)
Có một khu vực “chiếm” một góc vườn Tao Đàn ngày nay nhưng ít người biết tới. Đó là Hội Kỵ mã Sài Gòn. Trò chơi đua ngựa có mặt ở Sài Gòn từ năm 1865 và nơi đầu tiên người ta “nuôi và tập cởi ngựa” chính là Hội Kỵ mã nằm ngay góc đường Nguyễn Du - Cách mạng Tháng Tám (sân khấu Trống Đồng hiện nay), trụ sở của Hội chính là tòa nhà Công đoàn.
Đến khoảng năm 1893, nơi quần và cưỡi ngựa dời về khu đất kế bên Bộ tư lệnh thành hiện tại, nay là khu dân cư, vì nơi nầy gần với trường đua và dân cư trung tâm Sài Gòn cũng phát triển nhiều hơn.
Trụ sở hội vẫn nằm chỗ cũ đến đầu thế kỷ 20 mới dời về số 93 đường Công Lý (Nam Kỳ Khởi Nghĩa). Sau năm 1955, nơi đây dành cho các hội hoạt động công đoàn và trở thành trụ sở Tổng công đoàn.
Một phần đất khác của vườn được giao cho Phòng Thể dục thể thao quận 1 sau năm 1975 và nay là khu vực thi đấu Nguyễn Du và khu chiếu phim Galaxy.
Cách đây 98 năm, Công Luận Báo, một trong những tờ báo quốc ngữ ít ỏi ở Sài Gòn tường thuật một trận đá banh giữa “Hội Gia Định Sports và Hội tuyển các tuyển thủ người nước ngoài ở Sài gòn” trên trang 13 số báo ra ngày 16-4-1917.
CUỘC THỂ THÁO  
Saigon-hôm chúa nhựt tuần rồi, nhầm ngày 15 avril 1917, hội Gia Định Sports xin phép quan nguyên soái Nam kỳ và hội thể tháo, lập ra một cuộc đấu cầu tại vườn Thành Phố (jardin de la ville), đặng góp tiền những người dự khán, tiền ấy gởi sang Đại Pháp cho những lính Annam đang ở tại trận tiền cùng như giúp dưỡng đường của người bổn quốc tại thành Marseille.
Bữa ấy, tại vườn thành phố, nhạc langsa thổi rập rình, cờ đồng minh treo giáp giới, kiển vật sắp đặt chỉnh tề, còn bốn phía trường cầu, dập dìu nam thanh nữ tú.
Đúng năm giờ hội Gia Định Sports và 11 người lựa rút trong các hội langsa có danh tiếng tại Sai Gòn tựu nhau giữa trường cầu. Người giám cuộc phân ranh vừa xong, liền thổi một hơi tu hít (sifflet) thì hai bên đều nỗ lực tranh đua. Bên Gia Định người coi nhỏ thó nhưng giành lấn gọn gàng, tới lui phải phép, vì nhờ tập luyện đã tinh nhuần nên cứ bề thủ thắng. Trong 15 phút đầu ăn đặng một bàn là nhờ có mấy vị tiên phuông lanh lẹ, né lại tràn qua, hất lui đá tới, làm cho bên kia phải chạy lộn hàng, khi ấy M.Tung đá thẳng vào goal bị đụng nhằm cửa goal nên trái cầu dội lại. Kế M.Thới lướt đá tiếp theo trái cầu bay thẳng vào goal, bốn bên khen dậy. Từ đó cho đến 15 phút sau trái cầu cứ giao qua giao lại, chẳng ai thắng nỗi đặng ai, bởi hai bên đồng sức.
Đúng 30 phút, người giám cuộc thổi một tiếng tu hít cho hai bên giải lao 5 phút.
Đủ 5 phút, hai bên tựu lại giữa trường, người người đều hâm hở, nhưng mà bên Gia Định coi thế sút hơn vì có hơi đuối sức. (Có khi mấy ổng hay thức khuya cho nên mới mau mỏi mệt). nên chẳng cản nổi 5 vị tiên phuông bên kia, trái cầu cứ luẩn quẩn bên sân Gia Định. Khi M.Olh giành đặng trái cầu liền lùa thẳng xuống một hơi, đá ngay vào goal Gia Định, thiên hạ khen vang. M. Đại là người giữ goal cũng giỏi nhưng khó cản nỗi trái cầu, cũng bởi hai người hậu tập bên Gia Định hỏng hờ một chút.
Đúng 6 giờ 5 phút thì bãi cuộc đấu cầu.
Hội Gia Định ăn một bàn, bên kia ăn lại một bàn, cho nên không ai thắng bại.
Trong cuộc nầy góp tiền cả thảy tính đặng 401$40, trừ ra tiền sở phí lối chừng 100$, còn dư lại bao nhiêu thì phân nửa gởi cho dưỡng đường nuôi người bổn quốc tại thành Marseille, còn phân nửa gởi cho lính Annam ở các mặt trận
Bài viết nầy ký tên Hội Gia Định Sports.
TRẦN NHẬT VY

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét