Thứ Năm, 10 tháng 1, 2013

Cây nêu ngày tết


Theo truyền thuyết và Phật thoại, xa xưa, người và quỷ cùng sống trên mặt đất. Quỷ cậy mạnh chiếm đoạt toàn bộ đất đai và bắt người làm thuê cho chúng với những điều kiện ngày càng khắt khe, nhất là trò “ăn ngọn cho gốc”.
Theo đó, mùa gặt lúa đến, quỷ lấy hết phần ngọn (những bông thóc), còn người chỉ được phần gốc rạ. Phật thương người, mách bảo người đừng trồng lúa nữa mà nên trồng khoai lang. Mùa thu hoạch ấy người lấy hết củ, quỷ chỉ được dây và lá khoai! Quỷ tức tối, mùa sau quy định lại là “ăn gốc cho ngọn”. Người liền chuyển về trồng lúa như cũ. Vẫn thất bại, quỷ đòi “lấy cả gốc lẫn ngọn”. Phật mách người nên trồng ngô, người làm theo và lại thắng (vì bắp ngô ở khoảng giữa thân cây). Uất ức, quỷ tịch thu toàn bộ ruộng đất, không thuê người trồng cấy gì nữa.
 
Phật bảo người thương lượng với quỷ để mua một miếng đất chỉ bằng bóng chiếc áo cà sa. Người sẽ trồng một cây tre, trên đó mắc áo cà sa, đất của người là phần đất giới hạn bởi bóng áo ấy. Quỷ nghĩ chẳng đáng là bao nên đồng ý và hai bên giao ước: đất trong bóng áo của người, ngoài bóng áo của quỷ.

Khi người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn tung áo cà sa tỏa ra thành một miếng vải tròn, rồi hóa phép cho cây tre cao vút lên mãi. Bóng áo nhờ vậy ngày càng lan rộng, lấn nhanh vào đất quỷ khiến chúng phải dắt nhau lùi mãi và cuối cùng chạy ra biển Đông.

Quỷ tật hợp lực lượng phản công hòng chiếm lại đất. Cuộc chiến diễn ra ác liệt. Biết quân của quỷ sợ máu chó, lá dứa, tỏi, vôi bột nên Phật và người sử dụng những thứ ấy làm vũ khí, quỷ đại bại, bị Phật bắt, đày ra biển Đông. Chúng van xin Phật mỗi năm cho chúng vào thăm đất liền và phần mộ tổ tiên vài ba ngày. Phật thương tình, đồng ý.

Vì thế, hàng năm cứ đến Tết Nguyên đán (dịp quỷ vào đất liền), người ta lại trồng cây nêu để quỷ không dám đến nhà quấy nhiễu. Trên ngọn nêu, treo khánh đất nung (mỗi khi có gió rung thì phát ra tiếng kêu, nhắc quỷ nghe mà tránh), đồng thời buộc thêm lá dứa, cành đa... đuổi quỷ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía Đông và rắc vôi bột để cấm cửa quỷ.
Sự tích cây nêu diễn tả sinh động cuộc đấu tranh quyết liệt của con người chống lại những thế lực đen tối để giành quyền sống, quyền tự do cho mình. Qua đó, nó còn ca ngợi trí thông minh và tinh thần yêu lao động, khẳng định chiến thắng tất yếu của cái thiện đối với cái ác...

Trồng cây nêu đã trở thành tục lệ phổ biến vào dịp tết của các dân tộc Việt Nam : từ Việt, Thái, Mường đến Ba Na, Gia Rai... Trên ngọn nêu thường treo túm lá dứa, túm lông gà, cành đa, lá thiên tuế, những chiếc khánh và con cá bằng đất nung cùng một tán tròn bằng tre nứa dán giấy đỏ. Nhưng những vật treo đều tượng trưng cho nội dung bảo vệ con người, tạo lập hạnh phúc cho con người. Ví như lá dứa để dọa ma quỷ, không cho chúng vào quấy phá nhà. Cái khánh đồng âm với khánh – có nghĩa là phúc, năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình. Cành đa tượng trưng cho điều lành và tuổi thọ. Lông gà là biểu tượng chim thần (một sức mạnh thiên nhiên giúp người)...

Đặc biệt, cây nêu còn được coi là cây vũ trụ – nối liền đất với trời. Tán tròn bằng giấy đỏ tượng trưng cho Mặt trời và ngọn nêu là nơi chim thần (sứ giả của Mặt trời) đậu.

Mỗi nơi có cách chọn, trồng, trang trí... riêng cho cây nêu. Người ta thường trồng nêu vào ngày 30 tháng Chạp; người miền Bắc hay trồng lúc buổi trưa, miền Trung buổi chiều và miền Nam trồng lúc chạng vạng. Cuốn lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài của Alcxandre de Rhodes chương XXIX (viết năm 1651) cho biết: Ở miền Bắc “trồng cây nêu vào cuối năm, trồng bên cạnh nhà, một cột nêu cao hơn nóc nhà, trên ngọn buộc một cái thúng hay một cái hộp nhỏ có đục nhiều lỗ, bên trong đựng thỏi vàng giấy, bạc giấy để cho cha mẹ quá cố vào cuối năm có thể trả nợ khi cần thiết”. Cuốn Những năm ở Nam (viết khoảng giữa thế kỷ XVIII) của Jean Komer có đoạn mô tả cây nêu miền Trung và miền Nam thời đó: “Trước cửa phủ Chúa và các nhà dân đều dựng cây nêu lớn, trên ngọn buộc một chùm cành lá xanh (cành thiên tuế)... hoặc trên ngọn nêu còn buộc một ít vàng và bạc giấy, một số rơm con và một lẵng hoa trong để mấy đồng tiền... Những người theo đạo Cơ Đốc cũng được cha đạo cho phép trồng nêu, nhưng không được buộc những thứ kể trên”. Còn cuốn Gia Định thành thông chí (viết đầu thế kỷ XIX) của Trịnh Hoài Đức cho biết ở Nam Bộ “vào ngày trừ tịch, nhà nào cũng trồng một cột tre trước cửa, trên đầu cột buộc cái giỏ tre trong đựng trầu, cau và vôi, bên cạnh treo giấy vàng, giấy bạc, gọi là dựng nêu”...

Có nơi, cây nêu chỉ đơn giản là một cây tre hoặc một nhánh tre, không treo gì cả. Có nơi cây nêu là cây tre đủ ngọn, cao ngất, treo bày nhiều thứ. Ở xã Chu Phan (Mê Linh, Vĩnh Yên), trên cây nêu người ta buộc chiếc chổi xể, cầu mong quét sạch mọi điều rủi ro. Ở xã Tứ Xa (Phong Châu, Phú Thọ), trên cây nêu lại treo vỏ ốc, cầu mong sự đông vui, nhiều con cháu, đồng thời người ta còn rắc vôi bột hình cung tên trên sân và làm con chó giấy đặt bên cổng để xua ma tà. Ở Kẻ Rị, Kẻ Chè thuộc xã Thiệu Trung (Đông Sơn, Thanh Hóa), cây nêu dựng cùng với việc rắc vôi bột hình cung tên (bắn đuổi quỷ) và hình cày bừa trước cửa (cầu mong nghề nông phát đạt)...

Đặc biệt, ở xã biển Xuân Hội (Nghi Xuân, Hà Tĩnh), dân sống trên thuyền cắm cây nêu ở mũi thuyền; cây nêu không phải bằng tre mà bằng... lau, dài chừng 1,6m – 1,7m, để một lá, treo hai hoặc ba lá vàng mã. Còn dân trên bờ vẫn dùng cây nêu tre, nhưng trên ngọn tre buộc cây lau và bộ đồ vàng mã.

TRỊNH MINH THUYẾT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét