Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2013

Ga Hàng Cỏ

Con tàu cũng là thời gian. Nó đang đi vào tương lai, để lại sau lưng những trang vàng chói lọi, mà 1000 trang ấy làm cái nền cho nó tạo ra cái đỉnh sau này ta chưa hình dung ra hết...

Những anh lính dõng lính lệ, chân quấn xà cạp nhưng đi đất, đầu đội nón dấu, hàng ngày có nhiệm vụ ra khu vực bãi hoang này mua cỏ về nuôi ngựa, nuôi voi cho nhà vua phủ chúa, đã lặn vào lòng đất Thăng Long-Hà Nội, nhưng linh hồn các anh có lẽ vẫn còn phảng phất khi Hà Nội có một phố Hàng Cỏ để đánh dấu cái chợ bán cỏ, những màu xanh non tươi, trông thấy đã tưởng như người cũng có thể ăn được, lũ lượt từ ngoại thành vào, trên vai gánh của những cô gái thắt lưng hoa đào hoa lý, chiếc khăn mỏ quạ, chiếc váy lửng ngang bụng chân thấp thoáng màu da con gái...
Phố Hàng Cỏ đã thành phố Trần Hưng Đạo, ga Hàng Cỏ đã thành ga Hà Nội, nhà ga như điểm hồng tâm toả  những tia ánh sáng ra 5 con đường lên ngược về Bắc, những Yên Bái, Lào Cai, những Thái Nguyên, Quảng Ninh, rồi Hải Phòng, và qua Bắc Ninh, Bắc Giang lên biên giới Lạng Sơn, Đồng Đăng và tít tắp dọc chiều xuyên đất nước vào đến miền Nam bao la đồng bằng Nam Bộ... và một trăm năm đã trôi qua là lịch sử nhà ga, lịch sử đường tầu sẽ đón một trăm năm nữa có thêm những nẻo đường nào đã manh nha ẩn hiện với tương lai...
Biết đâu sẽ có những nhánh đường cho con tàu xình xịch, bước chân hành khách xuống lên, núi rừng và đồng ruộng xa xăm vùng Điện Biên - Lai Châu hay Trà Cổ - Móng Cái và mũi Cà Mau luôn đỏ hồng da thịt mới bùn non lấn biển cũng được đón con tàu nghìn năm chưa có.
Năm 1900, chợ bán cỏ vẫn còn bên bãi hoang đua ngựa. Nguyễn Siêu, Cao bá Quát, Tú Xương, Bà Huyện Thanh Quan và bao danh nhân khác chưa hề nhìn thấy làn khói trắng những con tàu, chưa nhìn thấy nhà ga xây cao theo kiểu phương Tây, không phải chiếc nón dấu anh lính triều đình mà là những chiếc mũ lưỡi trai thổi còi đưa đón sức mạnh mới của máy hơi nước của thời kỳ hiện đại.
Đó là năm 1902, Hà Nội thở hơi thở mới. Đường sắt được ra đời từ cái chợ cỏ muôn xưa. Không phải một lúc mà có ngay năm nẻo đường dài ngắn. Cuộc khởi nghĩa của người nông dân Hoàng Hoa Thám làm thực dân Pháp mất ăn mất ngủ mấy mươi năm con đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn đứt đoạn hàng chục mùa mưa nắng.
Năm khánh thành ga Hàng Cỏ cũng là năm khánh thành cây cầu vượt sông Cái lúc đầu tên là Doumer, sau là cầu Long Biên (1902) tiếp đó có đường Hà Nội - Hải Phòng (4-1903), Hà Nội - Lào Cai (4-1905), đến năm 1936 tức là ba mươi năm sau con đường sắt xuyên Việt mới hoàn toàn xong, nối những đoạn đứt nối lại với nhau (1936). Lúc đầu ga Hàng Cỏ nằm trong diện tích 216.000 mét vuông tức hơn 21 ha, trong đó diện tích xây dựng  là 105.000m vuông nhà cửa, còn là sân ga, đường sắt, hẳn ngày nay đã có những thay đổi cả về diện tích và các nhánh đường cho các đoàn tàu tránh nhau, ăn khách, dỡ hàng ngày đêm không một chút nào ngơi nghỉ.
Xung quanh ga Hàng Cỏ còn vương vấn nhiều tên làng cổ Khâm Đức, Lương Sử, Văn Miếu, Văn Chương, Lim Liên, Quán Sứ nay cũng đã thay hình đổi dạng nhưng ta vẫn có thể chạm vào lịch sử mỗi khi thả bước một vùng Hà Nội, khi ta trả lại chỗ ngồi trên toa cho con tàu, còn ta đưa bước thong dong mà thưởng ngoạn.
Trụ sở Hoả Xa nay là trụ sở Tổng Liên Đoàn Lao Động. Khu Đấu Xảo xây dựng trên đường đua ngựa là Cung Văn hoá Hữu Nghị. Phố Hàng Lọng từng có tên là Đường Quan Lộ, có nghề làm lọng , làm ô, làm kiệu, đi qua trước cửa ga mới hình thành khoảng trăm năm trở lại. Nhớ xưa, khi Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác từ xứ Nghệ ra Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán, ông phải đi lối Ô Chợ Dừa vào phủ (thế kỷ XVIII) thì con đường Hàng Lọng qua Kim Liên xuống Ngã Tư Vọng mới chỉ là con đường nhỏ rải đá dăm nhỏ bé đi giữa những hồ ao chi chít nào Bẩy Mẫu, Ba Mẫu, Liên Trì, Liên Thuỷ nay đã nhường chỗ cho bao nhiêu căn nhà cao thấp lô nhô. Hàng Lọng cũng thành đường Nam Bộ rồi đường Lê Duẩn, con đường mới, đoạn khởi đầu của cái cửa cho ta đi suốt đến Sài Gòn, Cần Thơ, Năm Căn...
Hà Nội 1000 năm, bao triều đại oanh liệt, vinh quang và đau thương trầm lắng đã diễn ra liên tục. Nghìn năm là ba mươi thế hệ người Thăng Long Hà Nội đã kinh qua, gửi gắm, sống chết với kinh kỳ. Ngành Đường Sắt Việt Nam non trẻ mới khoảng trăm năm, tức khoảng ba thế hệ. Khu đất hoang vu cỏ lau, cỏ lác, cỏ mần trầu, cỏ ngọt xa xưa đã chấp nhận tiếng còi tầu đêm ngày gọi những chuyến đi và nhắc người đi đón kẻ về. Bao nhiêu phố phường Hà Nội quanh cái vòng tròn mà ga là trung tâm ấy, đêm đêm nghe tiếng còi âm vang trong gió thu, trong sương đông hay trăng non trên thành phố?
Ai trong những con người Hà Nội có nghe tiếng còi mà động lòng hồ hải, muốn khoác tay nải lên vai mà lên đường cho thoả chí phiêu lưu như Nguyễn Tuân, Tản Đà? Ai nghe tiếng còi tàu mà hoài niệm những đoạn đời mình, hôm lên Lạng Sơn cho hương hoa hồi phủ kín toàn thân hay giọng hò Sông Hương bến Ngự lưu luyến mối tình "Nước non ngàn dặm...", hoặc gặp Hải Phòng có bến Sáu Kho, có đèn Nam Triệu, có con cua bể làm món nem nghiêng ngả cả đêm vui... Thực ra con tàu kéo còi, không hề biết mình đã làm công việc ấy. Người nhà tàu, từ anh tài xế, anh đốt lửa, ông xếp ga, người bẻ ghi, anh công nhân gõ gõ chiếc búa kiểm tra gầm toa khi con tàu dừng lại, không làm công việc ấy. Người nhà tàu thổi linh hồn cho con tàu ra đi và trở về, có nhanh có chậm, có vắng có đông, còn việc tạo ra niềm thơ nỗi mộng, những bâng khuâng và xúc cảm là tự người Hà Nội khoác cho mình mà con tàu, tiếng còi tàu chỉ là chất men xúc tác. Hà Nội phong nhã hào hoa là thế, khác xa người phụ nữ nông thôn, nghe tiếng còi tàu giục giã, thổi nồi cơm, nắm vào chiếc mo cau cho con lên đường, gửi theo bao lo lắng nhớ nhung đứa con từ nay biền biệt chứ không hề mơ mộng viển vông. Con tàu thì cứ lặng lẽ và sôi động, chấp nhận tất cả về mình.

Ngành đường sắt mới trăm năm, còn non trẻ, còn sung sức, còn đang chuyển mình phát triển. Ga Hà Nội từng chịu quả bom tấn tơi bời gạch đá đầu những năm bẩy mươi. Ga hồi sinh, gương mặt đã có phần đổi khác với lối kiến trúc hiện đại hơn, chiếc đồng hồ treo nghiêng trước mặt ga trông ra đường sắt đã có bao nhiêu triệu người nhìn nó, nay thay bằng chiếc đồng hồ phía trông ra phố Lê Duẩn, đón đưa những con tàu về Nam, mang theo tình Bắc tình Nam trao gửi, nó vẫn chỉ thời gian, nhưng là thời gian sôi động của thời kỳ đã hoàn toàn khác trước khi nó chưa ra đời, nó còn là cái chợ cỏ có cô gái chít khăn mỏ quạ, quay mặt đi để tránh cái "ỡm ờ" anh lính đi chân đất nhà quan, nhà chúa.
Con tàu cũng là thời gian. Nó đang đi vào tương lai, để lại sau lưng những trang vàng chói lọi, mà 1000 trang ấy làm cái nền cho nó tạo ra cái đỉnh sau này ta chưa hình dung ra hết.
Tuỳ bút Băng Sơn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét