Ban sơ, phần lớn của Quận 10 ngày nay gọi là khu vực Mả Nguỵ; gọi Nguỵ vì những người khởi loạn theo phe của Lê Văn Khôi (con nuôi của Tả quân Lê Văn Duyệt, mộ phần nay ở Bà Chiểu). Lê Văn Khôi nổi loạn vì muốn báo thù cho cha nuôi. Vị cha nuôi này đã từng làm Tổng trấn miền Gia Định, vốn có lòng oán vua Minh Mạng. Vua Minh Mạng cũng không ưa Lê Văn Duyệt vì trước đây ông không ủng hộ việc đưa Minh Mạng lên ngôi vua. Hơn nữa, Lê Văn Duyệt chủ trương một kiểu "kinh tế thị trường" mới mẻ, đem lợi ích kinh tế lớn lao cho vùng Sài Gòn Chợ Lớn bằng cách mở rộng việc mua bán với Campuchia, giao thương với cả Pháp, Anh, Bồ Đào Nha,... Lê Văn Duyệt lại thích người Pháp vì Pháp đã từng giúp vua Gia Long chống quân Tây Sơn, thâu phục vùng kinh tế Huế.
Chợ Nguyễn Tri Phương xưa | Chợ Nguyễn Tri Phương ngày nay |
Số người sống sót trong thành bị xử tội chết hơn 1.500 người, đem chém đầu ở một cánh đồng hoang. Ta thử hình dung cuộc thảm sát quy ô ấy gây kinh hoàng như thế nào trong lúc dân số Sài Gòn Chợ Lớn lúc đó còn quá ít ỏi. Hành hình xong, chôn vào những nấm mộ tập thể. Khoảng năm 1930, các sử gia người Pháp tìm hiểu về sự kiện trên, được các người cao tuổi ôn lại trí nhớ khẳng định những nấm mộ tập thể nằm rải rác bắt đầu từ Điện Biên Phủ (ngày nay) kéo dài đến phía Chợ Lớn. Những cụ già bảo rằng khu vực ấy ngang qua bệnh viện Bình Dân, chạy dài đến Việt Nam Quốc Tự (mới) vì mỗi huyệt mộ chôn nhiều lắm là vài mươi xác người.
Rước sắc thần tại lễ Kỳ yên Đình Chí Hoà |
Tên gọi Mả Nguỵ có lẽ do đầu buổi đầu dân còn sợ vua Minh Mạng. Nhưng lịch sử đã qua hơn 150 năm, người chết rồi thì ai cũng như ai, xoá bỏ đi những bất đồng, tranh chấp. Một cán bộ Viện Khoa học Xã hội đến dự buổi lễ để phát biểu những ý kiến xứng đáng. Về sau, không ai còn gọi "Mả Nguỵ" nữa mà gọi là Đồng mả lạng, theo nghĩa mất dấu vết vì thời gian. Xưa kia, người Pháp gọi "cánh đồng mồ mả" vì có quá nhiều mồ mả (Plaise Des Tombean). Hiện nay vùng này nhà cửa đã đông đúc.
Ao rau muống trước khi xây dựng Hồ Kỳ Hoà |
Chí Hoà đọc lơ lớ là Kỳ Hoà, "ch" đọc như chữ "k" hoá ra "Kỳ Hoà". Thời kháng Pháp, Nguyễn Tri Phương lập căn cứ ở phía Bắc, cụ thể là tổng hành dinh đóng ở vùng Bà Quẹo ngày nay, trên đường đi Tây Ninh, cách chợ Bà Quẹo (chợ Võ Thành Trang) khoảng vài trăm mét. Bốn đồn chính gọi là Đồn Trung, Đồn Tả, Đồn Hữu, Đồn Tiền, Đồn Hậu. Từ những đồn chính này có đắp luỹ đất cao hơn 3 mét, dày cỡ 4 mét dài xuống Phú Thọ, toả ra phía Nam đến khu vực cư xá sĩ quan (chế độ cũ) và chợ Nguyễn Văn Trỗi. Hành dinh của Nguyễn Tri Phương như cái đỉnh hình tam giác, hai góc ở đáy hình tam giác là trường đua Phú Thọ, cả phía cầu Công Lý. Ta có tất cả, kể luôn dân binh, nghĩa quân hơn 5.000 người. Vách thành cắm dày đặt chông tre phòng thủ. Pháp tập trung hơn 1.000 lính thiện chiến, chiếm đồn Cây Mai, đánh vòng lên phía Bà Quẹo. Mặc dù chiến đấu dũng cảm nhưng sau đó Nguyễn Tri Phương bị thương, quân binh thiệt hại nặng phải rút về Biên Hoà. Theo địa hình, "Hồ Kỳ Hoà" ở vùng ngoài, xa chiến trận.
Đông Hồ xưa |
Chuyện xưa rồi đến chuyện nay. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và đánh Mỹ, nhân dân quận 10 luôn một lòng đi theo Đảng theo cách mạng. Lòng yêu nước của nhân dân quận 10 như pháo đài vững chắc, giữ vững truyền thống đấu tranh kiên cường cho đến thắng lợi. Ba mươi năm sau ngày giải phóng, những hiệu quả thành tựu đạt được trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá thể thao, chính sách xã hội, an ninh quốc phòng,... đặc biệt về phát triển, hội nhập kinh tế là minh chứng cho sự đúng đắn, năng động trong thực hiện đổi mới kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với quá trình đô thị hoá do Đảng bộ quận 10 lãnh đạo. Con đường phía trước tuy chưa gọi là suôn sẻ, nhưng với ý chí, quyết tâm, chắc rằng quận 10 sẽ có những chuyển biến tích cực về kinh tế, góp phần đổi mới nhiều mặt trong đời sống văn hoá, xã hội của nhân dân quận 10.
Nhà văn Sơn Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét