Mỹ Thanh- tên gọi của một thời. Không biết có phải do “bệnh” nghề nghiệp hay không, cứ mỗi lần đi đến một địa phương nào đó là tôi hay có thói quen tìm hiểu trước vùng đất xung quanh một số mặt như sản vật, địa danh, thắng cảnh nếu có. Đôi khi ngẫm lại cảm thấy mình… “quan liêu”. Bởi cả chục năm làm công tác Đảng và mấy năm liền làm phóng viên nhưng tôi chưa hề đặt chân đến vùng đất này. Nhưng cũng may, những tư liệu đối với Vĩnh Hải - Mỹ Thanh - Xâm Pha và vài địa phương lân cận tôi cũng “tích góp” được ít nhiều.
Theo huyền sử, chúa Nguyễn Ánh trên đường bôn tẩu đã nhiều lần nghỉ lại ở vùng đất này và đóng quân ở khu vực Cồn Nóc, Xâm Pha (thuộc xã Lạc Hoà hiện nay). Ngày trước ở đây còn di tích một nền đồn lũy bằng đất, giếng nước. Vào những năm 90 của thế kỷ 20, một người dân nơi đây trong khi đào giếng đã lượm được cả một vương miện mà người dân ở đây tin rằng là của “công chúa Mỹ Thanh”, một người con của Nguyễn Ánh đã bị bệnh chết ở đây và thi thể cũng được quàn ở khu vực này (tên xưa là làng Tân Khánh). Khi quân Tây Sơn truy kích đến đây, chúa Nguyễn Ánh buộc phải tiếp tục bôn tẩu thì mộ của công chúa Mỹ Thanh được giao cho những người có uy tín tại địa phương chăm sóc quanh năm hương khói. Cám cảnh vị công nương đã yểu mệnh trên con đường tẩu quốc, người dân địa phương đã thành kính lấy tên của Công chúa đặt tên cho cửa sông và khúc sông Cổ Cò đoạn chảy qua đây: sông Mỹ Thanh và cửa biển Mỹ Thanh. Ngày nay, nếu đứng ở phía xóm lưới Mỏ Ó, nhìn sang khu vực Xâm Pha vẫn thấy một ngôi cổ miếu (tương truyền là miếu thờ công chúa Mỹ Thanh- còn gọi là miếu Hoàng Cô) và một xóm lưới khá sung túc với nghề đóng đáy, đi ghe cào. Ở khu vực cát giồng phía trong, từ lâu tập trung đông đảo người Hoa rất giỏi về nghề làm rẫy với sản phẩm chủ lực là hành tím, các loại rau, đậu... Gần cửa Mỹ Thanh, còn có khu du lịch Hồ Bể. Đó là một vũng (hồ) nhỏ lùi vào phía trong đất liền nằm gần cửa Mỹ Thanh. Vũng này được tạo thành chủ yếu là cát vàng bồi và những đụn cát cứ thay đổi thường xuyên theo mùa gió và sóng biển. Vào mùa gió nồm nam, những vành đai cát vươn ra phía biển và có xu hướng đóng lại khi càng ra phía ngoài. Điều này được giải thích là do nguồn nước từ sông Hậu đổ xuống mang theo phù sa bồi đắp và sóng biển chạy dọc từ hướng bãi Trà Sết lên tạo thành. Đến mùa chướng, lúc này sóng lớn đập vào chủ yếu là từ hướng bắc xuống, cộng với nước triều cường lại lấy đi (đập bể, làm vỡ ra) những vành hồ bên ngoài vừa được tạo lập trước đó trong mùa nồm nam. Mặt vũng lại mở rộng như trước. Có lẽ đây chính là điều đã làm nên địa danh “Hồ Bể”. Trong những năm 90 của thế kỷ 20, khi muốn ra được Hồ Bể phải vượt qua những “nổng cát” lớn mới ra được bãi biển. Phía trong những giồng cát này, người Hoa, người Khmer trồng cây thuốc cá là chủ yếu. Dọc theo tuyến lộ, chúng tôi vẫn còn thấy thấp thoáng những đám dây thuốc cá với màu lá xanh um. Chú Lý Phết- một lão nông cho biết: Vài năm trước đây, nhu cầu sử dụng rễ thuốc cá rất cao nên lợi nhuận khá hấp dẫn so với các loại hoa màu khác. Nhất là những lúc nghịch mùa, khan hiếm, giá có lúc tăng lên 30.000đ/kg, tiền lời sẽ gấp đôi. Nhưng, kể từ khi phong trào nuôi tôm sú giảm xuống và các loại thuốc công nghiệp dùng cho nuôi tôm xuất hiện ngày càng nhiều đã làm cho thuốc cá bị giảm giá. Tuy vậy, bà con vẫn tiếp tục trồng vì dây thuốc cá dễ chăm sóc, không bị sâu bệnh, vốn đầu tư ít nên người trồng rất an tâm. Dọc theo vùng này là những cánh rừng đước, mắm, chà là làm thành một vành đai phòng hộ cho những xóm làng bên trong mổi khi có triều cường. Tuy nhiên, vì nằm trực diện hướng ra cửa Mỹ Thanh nên đến mùa chướng, sóng biển từ cửa Mỹ Thanh đập trực diện vào đây nên đất lở hàng năm khá nhiều. Có nhiều vị cao niên từng sinh sống tại vùng Xâm Pha đã giải tích về nguồn gốc Xâm Pha: Đó là kiểu phát âm của từ chữ “Sóng Phá” (?). Vậy Xâm Pha nghĩa là Sóng Phá. Âu cũng là một cách giải thích cho một địa danh, còn chính xác cở nào thì đành phải “hạ hồi phân giải” vậy.
Mỹ Thanh- làn gió mát của tương lai.
Cầu Mỹ Thanh 2
Đứng trên cầu Mỹ Thanh 2 trong cơn nắng gay gắt nhưng từng luồng gió biển thổi lồng lộng như đánh bạt đi nhiệt độ oi bức của thời tiết tháng sáu. Phóng tầm mắt hướng về cửa biển ánh màu xanh thẳm, chúng tôi cứ suýt xoa trước vẽ đẹp kỳ thú của biển trời bao la. Cầu Mỹ Thanh 2, một công trình trọng điểm và bề thế nhất trên tuyến Nam Sông Hậu cách cửa sông Mỹ Thanh khoảng 2 km không những làm được chuyện nối liền đôi bờ của địa phận Vĩnh Châu - Trần Đề mà còn giúp cho khách bộ hành lặng ngắm những nét hoành tráng của cửa biển trời Mỹ Thanh. Cầu mới có qui mô lớn tương đương cầu Mỹ Thanh 1, với chiều dài 611 mét, mặt cầu rộng 12 mét. Từ đây, con đường Nam Sông Hậu vào địa phận xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu và nối đường tỉnh 113 dọc bờ biển Vĩnh Châu về Bạc Liêu và hướng ngược lại nối liền với địa phận Cần Thơ. Anh bạn đồng nghiệp vốn khá rõ về vùng đất này cho tôi biết chỗ nào là hướng của Hồ Bể, chỗ nào là khu vực Xâm Pha, đâu là rừng chà là với món khoái khẩu của dân nhậu: Đuông chà là.
Theo người dân địa phương cho biết, ngày trước khi đám chà là còn được gọi là rừng thì con đuông chà là cũng là “con” xóa đói – giảm nghèo của không ít hộ dân nơi đây. Cây chà là đầy gai góc, muốn chặt được một ngọn chà là có đuông thật không dễ chút nào… Hình ảnh đôi vợ chồng người nông dân lam lũ vác bó đọt chà là xuống chợ Vĩnh Châu để bán mà tôi vô tình gặp vài năm trước. Không biết còn theo “nghiệp” ấy nữa không? Nếu có thì chắc là anh chị “di chuyển” sẽ nhanh hơn trên con đường thông thoáng này. Nhưng hôm nay, những đám rừng chà là đã bắt đầu biến dần, nhường chỗ cho những vuông tôm hoành tráng cùng với bao dự án khác như sánh đôi với con đường Nam Sông Hậu thông thoáng và cây cầu Mỹ Thanh bề thế, vững trãi vắt ngang cửa biển rộng mênh mông. Có lẽ mai này, con đuông chà là sẽ cùng chung với số phận của con cá cháy - một sản vật “kỳ trân vị thuỷ” của của dân vùng ven sông Hậu. Người dân bên đôi bờ Mỹ Thanh còn cho biết, những ngày cuối tuần, có không ít người dân ở TPST, Mỹ Xuyên, Long Phú mà đa phần là cán bộ công chức, tổ chức từng nhóm mướn tàu đi câu cá ở cửa biển. Khi chúng tôi đề cập chuyện tổ chức “du lịch câu cá”, anh Lâm Sơn - chủ một quán nước cho biết: “Bà con nơi đây cũng đã “tính” chuyện này lâu rồi. Nhưng một phần hạn chế đồng vốn, một phần chưa có kinh nghiệm làm chuyện này nên sợ bị lỗ. Nghe nói ở Vũng Tàu, Phú quốc thực hiện mô hình du lịch cây cá “ngon ăn” lắm, người ta “làm” được nhưng dân mình là dân “hai lúa”, sợ khó ăn.
Rời Mỹ Thanh, chúng tôi nhấn ga phóng tới khu vực du lịch Hồ Bể - một địa danh mà vài năm nay trở thành nơi quen thuộc của người dân Sóc Trăng đến vui chơi, giải trí vào những ngày lễ, ngày cuối tuần, nhất là giới trẻ. Hồ Bể toạ lạc tại ấp Huỳnh Kỳ, xã Vĩnh Hải cách chân cầu Mỹ Thanh 2 khoảng 2 km. Bãi biển Hồ Bể là sản phẩm độc đáo mà thiên nhiên đã ban tặng cho bờ biển Vĩnh Châu. Với bãi cát vàng khá sạch sẽ chạy dài trên 4 km tuy còn khá hoang sơ nhưng ẩn chứa nét đẹp của một khu vui chơi vùng ven biển. Anh Tôn - chủ một quán nhậu bình dân trên con đường dẫn ra Hồ cho biết: “Từ khi con đường Nam Sông Hậu hoàn thành thì những ngày cuối tuần người dân ở các nơi kéo về khá đông. Có người đến tắm, có người tổ chức nhậu nhẹt ca hát, có người còn vác theo cần cây để câu cá ngát…” Thấy chúng tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, anh Sơn nói thêm: “Cá ngát ở bìa rừng giáp biển khá nhiều, cá không lớn lắm, chừng bắp tay thôi nhưng chắc thịt, nấu với trái bần thì nhậu hết ý”. Rồi anh đột ngột hỏi chúng tôi: “Mấy anh ăn cá Thòi lòi nấu canh chua chưa ? Ngon hết ý”. Chúng tôi nhìn nhau như “hội ý”. Lại thêm một món lạ, cá thòi lòi kho tiêu hay nướng muối ớt thì ăn đã nhiều nhưng với món canh chua thì chưa. Anh chủ quán xăng xái bóc điện thoại gọi: “Có thòi lòi không mậy ? Đem lại tao một mớ đi, đủ nấu canh chua, kho tiêu cho 3- 4 người ăn thôi. Chừng hơn một ký được rồi.”. Gác điện thoại, anh nói: “Thằng cháu nó “chuyên gia” câu thòi lòi, mối của quán tôi đó, mấy anh yên tâm giá cả bình dân thôi.” Trong khi chờ đơi, chúng tôi đảo một vòng ra Hồ Bể vừa để ngắm cảnh thiên nhiên vừa cảm nhận thêm sinh khí tuy còn manh nha nhưng sẽ sớm hứa hẹn nơi đây sẽ là khu vui không kém phần hấp dẫn…
Buổi trưa hè khá nóng bức nhưng dưới mái nhà lợp lá dừa nước đã làm dịu đi không khí oi bức. Chúng tôi quây quần bên nồi canh chua với nào là cá ngát, thòi lòi mà cá nhiều hơn bắp chuối, đang bốc lên mùi thơm lừng lựng. Canh chua cá thòi lòi cũng hấp dẫn không kém bất kỳ loài cá nào. Gắp một miếng thịt cá thòi lòi chắc nịch từ tô canh chua bốc khói, chấm vô chén muối dầm ớt hiểm mà “mồ hôi lưỡi” (ứa nước miếng đó mà!) đã đổ lúc nào không hay. Thử một miếng đầu cùng với ly rượu đế, chúng tôi gật gù: Quá bắt! Món này ăn không biết ngán đây! Và càng ngạc nhiên hơn: Một bữa cơm, rượu “hoành tráng” như vậy mà chỉ có hơn sáu mươi ngàn. Anh chủ quán nói: “Quán nhà quê bình dân mà”. Vậy đó, vùng đất mới ta tạm gọi như thế, đã hội tụ đủ các yếu tố cho cuộc làm ăn mới: Thiên thời, Địa lợi, Nhân hoà. Hy vọng trong nay mai Mỹ Thanh - vùng đất huyền thoại sớm vượt qua cái ngưỡng nghèo để vươn lên khá giàu như bao thế hệ người dân nơi đây đã từng mơ ước./.
Theo huyền sử, chúa Nguyễn Ánh trên đường bôn tẩu đã nhiều lần nghỉ lại ở vùng đất này và đóng quân ở khu vực Cồn Nóc, Xâm Pha (thuộc xã Lạc Hoà hiện nay). Ngày trước ở đây còn di tích một nền đồn lũy bằng đất, giếng nước. Vào những năm 90 của thế kỷ 20, một người dân nơi đây trong khi đào giếng đã lượm được cả một vương miện mà người dân ở đây tin rằng là của “công chúa Mỹ Thanh”, một người con của Nguyễn Ánh đã bị bệnh chết ở đây và thi thể cũng được quàn ở khu vực này (tên xưa là làng Tân Khánh). Khi quân Tây Sơn truy kích đến đây, chúa Nguyễn Ánh buộc phải tiếp tục bôn tẩu thì mộ của công chúa Mỹ Thanh được giao cho những người có uy tín tại địa phương chăm sóc quanh năm hương khói. Cám cảnh vị công nương đã yểu mệnh trên con đường tẩu quốc, người dân địa phương đã thành kính lấy tên của Công chúa đặt tên cho cửa sông và khúc sông Cổ Cò đoạn chảy qua đây: sông Mỹ Thanh và cửa biển Mỹ Thanh. Ngày nay, nếu đứng ở phía xóm lưới Mỏ Ó, nhìn sang khu vực Xâm Pha vẫn thấy một ngôi cổ miếu (tương truyền là miếu thờ công chúa Mỹ Thanh- còn gọi là miếu Hoàng Cô) và một xóm lưới khá sung túc với nghề đóng đáy, đi ghe cào. Ở khu vực cát giồng phía trong, từ lâu tập trung đông đảo người Hoa rất giỏi về nghề làm rẫy với sản phẩm chủ lực là hành tím, các loại rau, đậu... Gần cửa Mỹ Thanh, còn có khu du lịch Hồ Bể. Đó là một vũng (hồ) nhỏ lùi vào phía trong đất liền nằm gần cửa Mỹ Thanh. Vũng này được tạo thành chủ yếu là cát vàng bồi và những đụn cát cứ thay đổi thường xuyên theo mùa gió và sóng biển. Vào mùa gió nồm nam, những vành đai cát vươn ra phía biển và có xu hướng đóng lại khi càng ra phía ngoài. Điều này được giải thích là do nguồn nước từ sông Hậu đổ xuống mang theo phù sa bồi đắp và sóng biển chạy dọc từ hướng bãi Trà Sết lên tạo thành. Đến mùa chướng, lúc này sóng lớn đập vào chủ yếu là từ hướng bắc xuống, cộng với nước triều cường lại lấy đi (đập bể, làm vỡ ra) những vành hồ bên ngoài vừa được tạo lập trước đó trong mùa nồm nam. Mặt vũng lại mở rộng như trước. Có lẽ đây chính là điều đã làm nên địa danh “Hồ Bể”. Trong những năm 90 của thế kỷ 20, khi muốn ra được Hồ Bể phải vượt qua những “nổng cát” lớn mới ra được bãi biển. Phía trong những giồng cát này, người Hoa, người Khmer trồng cây thuốc cá là chủ yếu. Dọc theo tuyến lộ, chúng tôi vẫn còn thấy thấp thoáng những đám dây thuốc cá với màu lá xanh um. Chú Lý Phết- một lão nông cho biết: Vài năm trước đây, nhu cầu sử dụng rễ thuốc cá rất cao nên lợi nhuận khá hấp dẫn so với các loại hoa màu khác. Nhất là những lúc nghịch mùa, khan hiếm, giá có lúc tăng lên 30.000đ/kg, tiền lời sẽ gấp đôi. Nhưng, kể từ khi phong trào nuôi tôm sú giảm xuống và các loại thuốc công nghiệp dùng cho nuôi tôm xuất hiện ngày càng nhiều đã làm cho thuốc cá bị giảm giá. Tuy vậy, bà con vẫn tiếp tục trồng vì dây thuốc cá dễ chăm sóc, không bị sâu bệnh, vốn đầu tư ít nên người trồng rất an tâm. Dọc theo vùng này là những cánh rừng đước, mắm, chà là làm thành một vành đai phòng hộ cho những xóm làng bên trong mổi khi có triều cường. Tuy nhiên, vì nằm trực diện hướng ra cửa Mỹ Thanh nên đến mùa chướng, sóng biển từ cửa Mỹ Thanh đập trực diện vào đây nên đất lở hàng năm khá nhiều. Có nhiều vị cao niên từng sinh sống tại vùng Xâm Pha đã giải tích về nguồn gốc Xâm Pha: Đó là kiểu phát âm của từ chữ “Sóng Phá” (?). Vậy Xâm Pha nghĩa là Sóng Phá. Âu cũng là một cách giải thích cho một địa danh, còn chính xác cở nào thì đành phải “hạ hồi phân giải” vậy.
Mỹ Thanh- làn gió mát của tương lai.
Cầu Mỹ Thanh 2
Đứng trên cầu Mỹ Thanh 2 trong cơn nắng gay gắt nhưng từng luồng gió biển thổi lồng lộng như đánh bạt đi nhiệt độ oi bức của thời tiết tháng sáu. Phóng tầm mắt hướng về cửa biển ánh màu xanh thẳm, chúng tôi cứ suýt xoa trước vẽ đẹp kỳ thú của biển trời bao la. Cầu Mỹ Thanh 2, một công trình trọng điểm và bề thế nhất trên tuyến Nam Sông Hậu cách cửa sông Mỹ Thanh khoảng 2 km không những làm được chuyện nối liền đôi bờ của địa phận Vĩnh Châu - Trần Đề mà còn giúp cho khách bộ hành lặng ngắm những nét hoành tráng của cửa biển trời Mỹ Thanh. Cầu mới có qui mô lớn tương đương cầu Mỹ Thanh 1, với chiều dài 611 mét, mặt cầu rộng 12 mét. Từ đây, con đường Nam Sông Hậu vào địa phận xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu và nối đường tỉnh 113 dọc bờ biển Vĩnh Châu về Bạc Liêu và hướng ngược lại nối liền với địa phận Cần Thơ. Anh bạn đồng nghiệp vốn khá rõ về vùng đất này cho tôi biết chỗ nào là hướng của Hồ Bể, chỗ nào là khu vực Xâm Pha, đâu là rừng chà là với món khoái khẩu của dân nhậu: Đuông chà là.
Theo người dân địa phương cho biết, ngày trước khi đám chà là còn được gọi là rừng thì con đuông chà là cũng là “con” xóa đói – giảm nghèo của không ít hộ dân nơi đây. Cây chà là đầy gai góc, muốn chặt được một ngọn chà là có đuông thật không dễ chút nào… Hình ảnh đôi vợ chồng người nông dân lam lũ vác bó đọt chà là xuống chợ Vĩnh Châu để bán mà tôi vô tình gặp vài năm trước. Không biết còn theo “nghiệp” ấy nữa không? Nếu có thì chắc là anh chị “di chuyển” sẽ nhanh hơn trên con đường thông thoáng này. Nhưng hôm nay, những đám rừng chà là đã bắt đầu biến dần, nhường chỗ cho những vuông tôm hoành tráng cùng với bao dự án khác như sánh đôi với con đường Nam Sông Hậu thông thoáng và cây cầu Mỹ Thanh bề thế, vững trãi vắt ngang cửa biển rộng mênh mông. Có lẽ mai này, con đuông chà là sẽ cùng chung với số phận của con cá cháy - một sản vật “kỳ trân vị thuỷ” của của dân vùng ven sông Hậu. Người dân bên đôi bờ Mỹ Thanh còn cho biết, những ngày cuối tuần, có không ít người dân ở TPST, Mỹ Xuyên, Long Phú mà đa phần là cán bộ công chức, tổ chức từng nhóm mướn tàu đi câu cá ở cửa biển. Khi chúng tôi đề cập chuyện tổ chức “du lịch câu cá”, anh Lâm Sơn - chủ một quán nước cho biết: “Bà con nơi đây cũng đã “tính” chuyện này lâu rồi. Nhưng một phần hạn chế đồng vốn, một phần chưa có kinh nghiệm làm chuyện này nên sợ bị lỗ. Nghe nói ở Vũng Tàu, Phú quốc thực hiện mô hình du lịch cây cá “ngon ăn” lắm, người ta “làm” được nhưng dân mình là dân “hai lúa”, sợ khó ăn.
Rời Mỹ Thanh, chúng tôi nhấn ga phóng tới khu vực du lịch Hồ Bể - một địa danh mà vài năm nay trở thành nơi quen thuộc của người dân Sóc Trăng đến vui chơi, giải trí vào những ngày lễ, ngày cuối tuần, nhất là giới trẻ. Hồ Bể toạ lạc tại ấp Huỳnh Kỳ, xã Vĩnh Hải cách chân cầu Mỹ Thanh 2 khoảng 2 km. Bãi biển Hồ Bể là sản phẩm độc đáo mà thiên nhiên đã ban tặng cho bờ biển Vĩnh Châu. Với bãi cát vàng khá sạch sẽ chạy dài trên 4 km tuy còn khá hoang sơ nhưng ẩn chứa nét đẹp của một khu vui chơi vùng ven biển. Anh Tôn - chủ một quán nhậu bình dân trên con đường dẫn ra Hồ cho biết: “Từ khi con đường Nam Sông Hậu hoàn thành thì những ngày cuối tuần người dân ở các nơi kéo về khá đông. Có người đến tắm, có người tổ chức nhậu nhẹt ca hát, có người còn vác theo cần cây để câu cá ngát…” Thấy chúng tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, anh Sơn nói thêm: “Cá ngát ở bìa rừng giáp biển khá nhiều, cá không lớn lắm, chừng bắp tay thôi nhưng chắc thịt, nấu với trái bần thì nhậu hết ý”. Rồi anh đột ngột hỏi chúng tôi: “Mấy anh ăn cá Thòi lòi nấu canh chua chưa ? Ngon hết ý”. Chúng tôi nhìn nhau như “hội ý”. Lại thêm một món lạ, cá thòi lòi kho tiêu hay nướng muối ớt thì ăn đã nhiều nhưng với món canh chua thì chưa. Anh chủ quán xăng xái bóc điện thoại gọi: “Có thòi lòi không mậy ? Đem lại tao một mớ đi, đủ nấu canh chua, kho tiêu cho 3- 4 người ăn thôi. Chừng hơn một ký được rồi.”. Gác điện thoại, anh nói: “Thằng cháu nó “chuyên gia” câu thòi lòi, mối của quán tôi đó, mấy anh yên tâm giá cả bình dân thôi.” Trong khi chờ đơi, chúng tôi đảo một vòng ra Hồ Bể vừa để ngắm cảnh thiên nhiên vừa cảm nhận thêm sinh khí tuy còn manh nha nhưng sẽ sớm hứa hẹn nơi đây sẽ là khu vui không kém phần hấp dẫn…
Buổi trưa hè khá nóng bức nhưng dưới mái nhà lợp lá dừa nước đã làm dịu đi không khí oi bức. Chúng tôi quây quần bên nồi canh chua với nào là cá ngát, thòi lòi mà cá nhiều hơn bắp chuối, đang bốc lên mùi thơm lừng lựng. Canh chua cá thòi lòi cũng hấp dẫn không kém bất kỳ loài cá nào. Gắp một miếng thịt cá thòi lòi chắc nịch từ tô canh chua bốc khói, chấm vô chén muối dầm ớt hiểm mà “mồ hôi lưỡi” (ứa nước miếng đó mà!) đã đổ lúc nào không hay. Thử một miếng đầu cùng với ly rượu đế, chúng tôi gật gù: Quá bắt! Món này ăn không biết ngán đây! Và càng ngạc nhiên hơn: Một bữa cơm, rượu “hoành tráng” như vậy mà chỉ có hơn sáu mươi ngàn. Anh chủ quán nói: “Quán nhà quê bình dân mà”. Vậy đó, vùng đất mới ta tạm gọi như thế, đã hội tụ đủ các yếu tố cho cuộc làm ăn mới: Thiên thời, Địa lợi, Nhân hoà. Hy vọng trong nay mai Mỹ Thanh - vùng đất huyền thoại sớm vượt qua cái ngưỡng nghèo để vươn lên khá giàu như bao thế hệ người dân nơi đây đã từng mơ ước./.
Thiên Lý
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét