Thứ Năm, 10 tháng 1, 2013

Trên quê hương người Lạch


CAO NGUYÊN LANG BI-AN
Ở chân trời hướng Bắc, dãy núi Lang Bi-an sừng sững hiện ra, tạo hậu cảnh cho thành phố Đà Lạt với hai đỉnh núi cao 2.167m và 2.154m. Dưới chân núi là xã Lát và huyện lỵ huyện Lạc Dương.
Năm 1899, bác sĩ Étienne Tardif (Ê-chiên-nơ Tạc-đíp) đã leo lên dãy núi Lang Bi-an và viết về cao nguyên Lang Bi-an:
“Cao nguyên Lang Bi-an là một vùng rộng lớn trải ra xung quanh giao điểm của 106o kinh Đông và 12o vĩ Bắc, có hình dáng một hình en-líp mà đường trục lớn Bắc - Nam dài 18km và đường trục nhỏ Đông - Tây dài từ 10 đến 12km.
Độ cao thay đổi từ 1.300 đến 1.550 và 1.600m.
Đỉnh núi cao nhất của dãy Lang Bi-an án ngữ cao nguyên Lang Bi-an về hướng Bắc. Về các hướng khác, những chỏm núi dài và cao bao bọc cao nguyên Lang Bi-an.
Khi nhìn thấy cao nguyên Lang Bi-an, điều đập mạnh vào mắt tôi trước tiên là địa hình. Cả một vùng rộng lớn gồm nhiều ngọn đồi nằm kề bên nhau, nối tiếp nhau, chế ngự lẫn nhau, sườn đồi này dốc thẳng đứng, sườn đồi kia nằm thoai thoải trên mặt đất.
Những thung lũng rộng và sâu nhiều hay ít chia cắt núi đồi dợn sóng, len vào giữa là con đường nối liền Đăng Kia (Dankir, Dankia) với Đà Lạt.
Cả vùng đồi núi này đều phủ một lớp cỏ ngắn vào mùa khô, cao và dày vào mùa mưa.
Trong thung lũng mọc nhiều loài thực vật khác nhau, lau sậy và trên vài sườn đồi có những đám thông và tùng.
Dòng nước chảy theo nhiều lối, có khi là những dòng suối nước chảy xiết, có khi là những ao hồ sâu ẩn mình dưới một lớp thảo mộc rậm rạp.
Hình dáng mấp mô của cao nguyên thật là lạ lùng! Tôi leo lên một trong năm đỉnh núi. Một cảnh quan kỳ diệu hiện ra trước mắt tôi. 150 đồi núi xanh rờn giống như một thúng cam khổng lồ.
... Tôi nhận thấy gió trên cao nguyên thổi vào tháng 6 từ Bắc sang Đông và thổi dữ dội từ Đông sang Tây vào tháng 11, trong mùa lạnh.
Cuối cùng, không thể nào quên một nét đẹp thật mê hồn trên cao nguyên bao la này: Ăn Krô-ét (Ankroët) với rừng thông mênh mông và thác nước kỳ lạ cao 15m, nước tuôn xối xả. Rất tiếc, vị trí nơi đây quá hẹp không cho phép xây dựng những công trình quan trọng.”
Theo các nhà địa chất, núi Lang Bi-an hình thành do vận động tạo sơn nhưng theo truyền thuyết của người Lạch (Lat, Lạt, Làc, M’ Lates,...) và người Srê (Xrê, Sré), núi Lang Bi-an do một con heo rừng tạo nên. Truyện cổ kể rằng:
Khởi thủy có địa ngục (Bờ-rạ Ting, Brating hay Brah Ting). Ở địa ngục, K’Bùng tạo ra tất cả: đất, đá, động vật, con người, những nhân vật đầu tiên được tôn là thần thánh.
Thế rồi K’Bùng và những nhân vật do K’Bùng tạo nên đi ra khỏi địa ngục để làm nên trời và đất.
K’Bùng lấy một cái búa nhỏ rèn thành trái đất, lấy một cái búa ngắn rèn thành trời. Trời đất cưới nhau sinh ra con đàn cháu đống về sau.
K’Bùng lấy từ địa ngục lên một trái bầu đựng đất màu mỡ và bảy gùi lớn đựng đất khô khan, đất màu mỡ cho lúa, đất khô khan chỉ là đất. K’Bùng và cộng sự không những tạo ra mặt trời, trăng, sao mà còn làm ra lục lạc cho ngựa, chuông cho trâu,...
K’Bùng tạo ra con kiến, con rắn, con chim sẻ trắng. K’Bùng cột một sợi chỉ vào chân con chim rồi cho bay đi khắp nơi để đánh dấu đất. Chim dừng lại trên một ngọn núi K’Bùng muốn tạo ra. K’Bùng đánh dấu nơi này và tạo ra đỉnh núi Lang Bi-an. K’Bùng tạo ra con heo rừng giúp K’Bùng đắp đất. Heo rừng dùng mõm ủi đất nhiều và khéo đến nỗi Lang Bi-an trở thành một ngọn núi lớn. K’Bùng tạo nên người khổng lồ ép đất núi tạo ra thác và rắn nước.
K’Bùng mang từ địa ngục một gùi nhỏ đựng hạt chuối rừng, một gùi có nắp đựng hạt tre, một gùi có quai đựng hạt cỏ tranh. Ông cũng mang cả hạt của cây mây, cây dứa, các loài thực vật khác.
K’Bùng tạo ra con nai. Trở về mặt đất, ông mang đất sét đỏ tạo ra những con chim sẻ, con ó từ đất đá, con cọp từ bùn lầy, con heo từ lúa khô, con thỏ từ lúa đông lạnh.
K’Bùng tạo ra tất cả, tạo cả con người (K’Bung mon jo’h, mon chau sól).
Ngày xưa, cây tre không có mắt và chân tay con người chỉ là một khối cứng đơ, không cử động được, không khom lưng được. Con của K’Bùng rất mạnh đã điều chỉnh lại chân tay giúp con người đi lại được. [30, 21 - 22]
Người Chin (Chil, Cil, Cill) cũng có một truyền thuyết về công trình đắp núi Lang Bi-an và nguồn gốc của các dân tộc ở Việt Nam:
Thuở xưa, hai vị thần N’Thup -Thưr và Lãn Dữn đã rèn nên trái đất và dùng phép mầu tạo ra mặt trời, mặt trăng cùng những ngôi sao soi sáng trái đất cả ngày đêm.
Lúc đầu trái đất còn mềm, sau khô cứng thành đất và đá. Ông bà N’Thup - Thưr và Lãn Dữn lấy đất nặn ra một người đàn ông và một người đàn bà, đặt tên là Ha Nghê và K’Nghe để cai quản trái đất. Hai người này kết duyên với nhau, sinh được một đôi trai gái, con trai đặt tên là Ha Đỏ, con gái tên là K’Dong. Lớn lên, hai người lấy nhau và sinh rất nhiều con cháu.
Ban đầu, tổ tiên loài người chưa biết làm nhà và sống trong hang đá. Cây cỏ, đất cát, nước nôi chưa xuất hiện, họ sống bằng một thứ thuốc đặc biệt và uống nước của con vẹt.
Một hôm, nghe thấy có những tiếng động lạ dưới một hòn đá, họ hè nhau lăn hòn đá sang một bên. Một con cua từ dưới hòn đá bò lên, theo sau là một dòng nước trong suốt chảy ra. Sau đó có rất nhiều vật lạ như lươn, cá, tôm,... cùng theo dòng nước bơi ra. Dòng nước ấy chảy suốt ngày đêm, năm này sang năm khác, không bao giờ ngừng. Nước chảy đến đâu đều xoi mòn đá tạo nên đất cát, đồng bằng và sông ngòi, hồ ao, biển cả. Từ ấy có mưa, cây cối mọc lên xanh tốt và muôn loài khác tự nhiên sinh ra.
Loài người rất sung sướng, họp nhau ca hát, nhảy múa bên dòng nước lạ. Về sau, họ biết trồng tỉa để có lương thực và biết nuôi súc vật để cúng tế thần linh.
Thời gian sau, loài người quá đông đúc, đất đai trồng tỉa không còn đủ nuôi sống tất cả, họ phải phân tán đi kiếm các vùng đất mới. Trước khi chia tay đi bốn phương trời, họ họp bàn cùng nhau làm một cái gì thật cao để con cháu dù đi xa đến đâu cũng trông thấy và có thể tìm đường về quê hương cũ. Mọi người đồng ý bắt chước loài mối tha đất đắp ụ để đắp một quả núi thật cao.
Công trình đắp núi vô cùng vất vả, đất mềm càng lên cao càng bị lở, họ phải làm giàn giữ đất và đặt ra tục lệ mỗi khi người con gái đi lấy chồng phải nộp cho nhà trai một số chiêng. Chiêng này úp vào quả núi cho thêm vững chắc. Đắp núi xong, họ đặt tên là Lang Bi-an rồi phiêu bạt khắp bốn phương trời.
Trong số những gia đình phân tán đi các nơi có sáu chị em gia đình nọ tên là K’Grup, K’Grum, K’Grăm, K’Grô, K’Pac, K’Nghê - K’Nga. Con cháu cô K’Grup sinh ra người Chăm, con cháu cô K’Grum sinh ra người Chu-ru, con cháu cô K’Grăm sinh ra người Chin, con cháu cô K’Grô sinh ra người Cơ-ho, con cháu cô K’Pac sinh ra người Mạ, còn con cháu cô K’Nghê - K’Nga đi xuống đồng bằng sinh ra người Kinh. Vì vậy, người Chăm, người Chu-ru, người Chin, người Mạ, người Cơ-ho và người Kinh đều là anh em.
Về ý nghĩa địa danh Lang Bi-an, truyện cổ của người Chin cho biết về sự tích K’ Lang và Ha Biang, núi Voi và sông Đa Nhim:
Ngày xưa, ở buôn Kon Đố (xã Đưng K’ Nớ, huyện Lạc Dương) có một đôi vợ chồng: người chồng tên là Ha Biang, người vợ tên là K’ Lang.
Một năm nọ, toàn vùng bị hạn hán, Ha Biang lên đường đi kiện trời, nhưng khi đến núi Găng-reo ở huyện Đức Trọng hiện nay thì bị chết đói.
K’ Lang lần theo vết của cây con do Ha Biang đã bẻ đi tìm chồng. Nhìn thấy xác chồng, K’ Lang khóc lóc thảm thiết, vang xa khắp “tám núi, tám sông, tám rừng, tám suối” và bay đến tận trời.
Trời liền sai thần mưa trút nước xuống trần gian nhưng K’ Lang vẫn tiếp tục khóc cho đến chết. Tiếng khóc của K’ Lang làm xúc động con voi đầu đàn. Nó đến che mưa cho K’ Lang và Ha Biang, đứng khóc rồi chết theo Ha Biang và K’ Lang.
Nước mưa hoà cùng nước mắt của K’ Lang và con voi chảy thành sông gọi là sông Đa Nhim (da: nước; nhim: khóc). Các già làng đặt tên cho ngọn núi ở Kon Đố là Lang Biang và núi Găng-reo là núi Voi.
Người Lạch cũng có một truyện cổ về sự thành lập núi Lang Bi-an :
Ngày xưa, đất trên cao nguyên và vùng đồng bằng đều bằng phẳng, chưa có núi cao như bây giờ. Khi mùa lũ đến, nước biển và nước sông tràn ngập cả đất đai, cây xanh không mọc, đất đai bạc màu. Thần Nđu thấy vậy đã làm phép nâng đất cao thành cao nguyên. Nước biển vẫn tràn lên, thần Nđu liền tạo ra nhiều ngọn núi cao thấp nằm gần nhau làm bờ ngăn cản nước, trong đó có hai ngọn núi Lang Bi-an. Ngăn chặn được nước sông và nước biển, cây cỏ xanh tươi, đất đai màu mỡ, thần Nđu giao cho thần rừng tạo ra loài vật để cho cuộc sống thêm vui. [6, 89]
NGƯỜI LẠCH
Từ xa xưa, trên cao nguyên Lang Bi-an có hai tộc người Chin và Lạch cùng sinh sống, nhưng đông nhất là người Lạch.
Chin còn gọi là cau n’ho (cau: người; n’ho: ngo, thông) có tập quán du canh, du cư, phát rừng, làm rẫy (sa bri: ăn rừng).
Lạch có nghĩa là đồi cỏ:
Jùn ntúat bơh brê làc tus brê dơr
(Con nai chạy từ đồi cỏ vào trong rừng thưa).
Một số tư liệu dịch Lạch là rừng thưa (clairière) hay trảng cỏ (clairière herbacée).
Người Chăm gọi người Lạch, Chin, Srê là Cơ-ho (Cơ Ho, Kơho, K’ Ho) có nghĩa là người miền núi.
Người Lạch sử dụng ngôn ngữ Môn - Khơ-me như người Ba-na, Stiêng, M’ Nông và một số dân tộc ít người khác trên Tây Nguyên.
Gốc người Lạch có các họ: Cil (Chil), Krajan (Krazanh), Liêng Hot, Rơông, Pangting, Dagốt (Dagout), Mebla, Bonding (Bòn Đing), Bonyộ (Bòn Yộ), Lơmbiêng,... Riêng họ Cil còn chia nhiều nhánh: Cil Mup, Cil Damjong,...
Người Lạch có một số họ như người Chin: Cil, Krajan, Liêng Hot, Rơông; riêng họ Cil của người Chin có Cil Pam, Cil Yú,...
Tuy nhiên, người Lạch có các họ mà người Chin không có: Dagout, Pangting, Rơglê, Mebla, Bonyộ, Bonding.
Ngược lại, có các họ chỉ có trong người Chin, người Lạch không có: Bondưng, Dơnggur, Konsa, Konsơ, Sơao, Sơnơr, Lơmu, Mbon, Bontô, Ntôl, Klong,...
K’ không phải là họ nhưng là một từ đặt trước tên của một nhân vật, có nghĩa như ông, bà, anh, chị trong tiếng Kinh. Ví dụ: K’ Mlơi có nghĩa là ông Mlơi.
Người Chin dùng từ K’ để phân biệt phái: K’ dùng để gọi phái nữ, Ha dùng để gọi phái nam. Người Lạch, người Srê dùng chung từ K’ cho cả nam lẫn nữ. [3, 165]
Trước năm 1954, người Lạch sinh sống trong 7 buôn: Bon Nơr, Bon Đêng (Bon Đing), Bon Dơng, Hàng Kròc (Rơhàng Kròc), Mang Ling và hai buôn Đang Ja. Năm 1954, thung lũng sông Đạ Đờng (Dạ Dờng, Da Deung, Đa Dâng) bị ngập lụt, Bon Dơng và một buôn Đang Ja được tập trung vào một địa điểm mới, trong khi đó vài gia đình chuyển sang Dơng Kriêng, Dà Mpào, Nrèng hay Pơnơr ở các huyện Đức Trọng và Lâm Hà ngày nay. [35, 3]
        

             
Hiện nay, người Lạch sống tập trung tại xã Lát (huyện Lạc Dương). Năm 1989, xã Lát có 395 hộ với 4.915 người Lạch. Xã Tà Nung (thành phố Đà Lạt) có khoảng trên 300 người Lạch.
Ngày xưa, đa số người Lạch sống trên vùng đất thấp, màu mỡ, trong các buôn có nhiều nhà dài với nhiều gia đình cùng chung sống.
Buôn làng ít khi có hơn 20 nhà, mỗi nhà có 3 hay 4 hộ. Có hai loại nhà: nhà đắp đất và nhà dài 20 - 25m, cất trên cột cao 2m, không có cửa sổ và ống khói. Dưới sàn nhà, họ nuôi trâu, heo, gà,... Ngựa được nhốt trong chuồng giống như chiếc hộp khép kín để tránh cọp thỉnh thoảng đi kiếm mồi.
Mái nhà lợp một lớp tranh dày. Trên trần nhà, người Lạch cất thóc, bắp, dây mây, thịt trâu, heo, nai xông khói. Hạt giống được cất giữ trong những chiếc giỏ bằng mây.
Buôn làng là đơn vị hành chính quan trọng nhất. Người có quyền lực cao nhất trong buôn là trưởng buôn hay chủ làng (kuang bon) được chọn không phải do thể lực nhưng do sự hiểu biết về phong tục, tập quán và luật lệ. Ngoài ra còn có một hội đồng già làng gồm chủ nhà (pô hiu) và tộc trưởng (kumy). Hội đồng họp với sự tham gia của trưởng buôn để giải quyết những trường hợp nghiêm trọng. Vì lợi ích chung, nhiều buôn có thể hợp tác với nhau và chọn người đứng đầu liên minh (roklong).
Luật tục (nri) là những câu thơ ca truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong luật tục của người Lạch không có án tù và tử hình. Người Lạch tin rằng khi con người phạm lỗi là không hoà đồng với thiên nhiên và động đến thần linh. Để không bị thần linh nổi giận trừng phạt, người phạm lỗi phải hiến sinh và nộp phạt. [70, 389, 395, 415 - 416]
    
Người Lạch có thân hình cân đối, nước da ngăm đen, tóc dài, mắt tinh. Họ luôn nhìn thẳng và hay cười. Họ cà răng, không dùng đũa nhưng ăn bốc và hay hút thuốc lá trong ống điếu.
Lỗ tai người phụ nữ đeo vòng bằng ngà voi hay thiếc lớn dần theo năm tháng, có khi nặng đến 500 gam. Cổ tay và cổ chân đeo vòng phát ra tiếng động khi bước đi. Đây là dấu hiệu của sự giàu sang.
Trẻ em đeo kiềng và vòng với những chiếc lục lạc.
Đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy làm bằng một mảnh vải quấn ngang thắt lưng.
Người Lạch rất trung thực, chất phác, giữ lời hứa, dũng cảm và hiếu khách.
“Jơi gloh cô tờm, hờm cô năc”
(Chủ đói để cho khách no).
Khi khách đến làng, họ mang chuối, cơm, gà, trứng,... đãi khách. Trưởng buôn đem ra một ché rượu, cắm một chiếc cần và mời khách uống. Chiếc cần được chuyền cho người này đến người khác. Trưởng buôn đôi lúc đổ thêm nước vào ché rượu, rượu ngày càng nhạt dần.
Họ rất ân hận khi không tiếp khách được chu đáo:
Trôêh kòn prôm bềl bồ ờ te làng
Trôêh kòn prôm bềl bàng ờ te lă
Iêr kuang kră ờ te bôh
Rơpu kuang yôh ờ te pơntề”
(Khách đến nhà chiếu trải không đủ
Khách đến nhà không có chiếu quý để trải
Khách đến nhà không có gà trống để nướng
Không có trâu đực để làm thịt mời khách).
Tuy y học còn thô sơ nhưng người Lạch biết sử dụng cây thuốc để chữa bệnh. Trong một số trường hợp, họ phải cúng bái. Người phụ trách cúng bái là thầy cúng (gru) nam hay nữ phục vụ cho nhiều buôn. Thông qua các vị thần linh, thầy cúng xác định bệnh tình, cho biết tên thần linh gây bệnh và lễ vật phải cúng tế.
Cuối thế kỷ XIX, bác sĩ Étienne Tardif đã được dân làng mời đến thăm một người dân bị bệnh nặng ở Bon Dơng (Bandone) gần Đăng Gia trên cao nguyên Lang Bi-an kể lại:
“Khi đến nhà, tôi thấy trên chòi đầu và chân một con trâu vừa mới bị giết. Người ta cho tôi biết đây là con trâu thứ ba cúng thần linh từ khi bệnh bắt đầu. Vào trong nhà, khói lửa cúng thần linh xông lên khó chịu. Quanh ngọn lửa, dân làng ăn và uống rượu. Thỉnh thoảng, một người kéo một sợi dây cột vào mái nhà làm cho những chiếc bùa và lục lạc vang lên. Cùng lúc trống chiêng đánh lên và người trong nhà la hét để xua đuổi ma quỷ đang nhập vào xác người bệnh. Bệnh nhân bị sốt rét nặng nằm cạnh đống lửa. Khi một người trong làng chết trong một thời gian ngắn do một căn bệnh không rõ, dân làng dời buôn sang nơi khác.” [50, 107 - 124]
Trong xã hội người Lạch, người phụ nữ sở hữu và thừa hưởng tài sản, đề khởi hôn lễ và truyền tên dòng họ gia đình cho con cái. Nam giới lo việc cày bừa, trồng trọt, thu hoạch, săn bắn, bắt cá và đan lát; người phụ nữ nấu cơm, chế biến rượu, dệt thổ cẩm và chăm sóc con cái. Vào mùa đông, săn bắn và bắt cá chiếm phần lớn thời gian của nam giới; vào mùa xuân và mùa hè, hoạt động chính là nông nghiệp.
Một ngày trong buôn diễn ra như sau:
Từ sáng sớm, người vợ thức dậy nấu cơm và dở cơm trưa.
Sau bữa ăn sáng, hai vợ chồng người nào việc nấy tùy theo mùa và ngày trong tháng.
Đến tối, người chồng trở về nhà, người vợ lại chuẩn bị cơm nước.
Sau bữa ăn tối, dân làng ca hát, kể chuyện cổ tích và trò chuyện đến khuya.
Thỉnh thoảng, các lễ hội, ma chay, hôn lễ làm thay đổi cuộc sống thường ngày.
Cũng như các tộc người Cơ-ho khác, người Lạch theo chế độ mẫu hệ, một vợ, một chồng. Họ cũng được phép đa thê nhưng rất hiếm, chỉ xảy ra trong các gia đình giàu có hay trưởng buôn. Hôn nhân giữa các thành viên trong cùng một dòng họ bị coi là loạn luân và cấm triệt để.
Người phụ nữ kén chồng (kup bao: bắt chồng) trong những người cùng buôn hay buôn lân cận. Một thầy cúng đứng ra chủ lễ thành hôn, cầu nguyện thần linh gia hộ cho đôi lứa. Trong trường hợp không có thầy cúng thì mẹ của cô dâu chủ lễ. Gia đình cô dâu giết trâu, heo, gà và lấy máu động vật hiến sinh trộn với rượu bôi vào chân cô dâu, chú rể.
Sau đó, chú rể ở lại lao động trong nhà cô dâu, chịu sự lãnh đạo của người lớn tuổi nhất trong gia đình nhà vợ. Nếu người vợ chết, người chồng có thể trở về nhà cha mẹ nhưng con cái ở lại nhà mẹ.
Sự gian dâm là một trọng tội và bị phạt rất nặng. Kẻ có tội phải nộp phạt cho gia đình, trưởng buôn, già làng và giết sinh vật để tạ tội với thần linh.
Người Lạch cũng được phép ly dị nhưng phải có lý do và được trưởng buôn, già làng cho phép. Nếu vợ hay chồng bị tố cáo là tà dâm, bất lực, lười biếng hay mâu thuẫn không giải quyết được thì hai họ họp lại bàn bạc với sự tham dự của chức sắc trong buôn. Người chồng không được cưới vợ lẽ nếu không được phép của người vợ cả. Người vợ lẽ bị đối xử như người ở và người chồng phải ở trong gia đình người vợ cả.
Nếu vợ hay chồng trốn nhà ra đi, cha mẹ vợ hay chồng phải nộp phạt một con trâu.
Khi bà mẹ chuyển bụng, người cha mời bà đỡ (mọ boai) đến giúp và ở lại trong nhà ba ngày sau khi đứa bé ra đời. Người cha cúng một con gà, một ché rượu và trả cho bà mụ một cái kiềng, một vòng bạc và một chiếc chăn.
Nếu bà mẹ đẻ khó, một bà đỡ thứ hai được mời đến.
Nếu bà mẹ vẫn chưa đẻ được, người cha mời bà đỡ thứ ba (mọ boai giac). Bà đỡ này có nhiều kinh nghiệm nhưng rất hiếm, 5 hay 6 buôn mới có một người.
Trong trường hợp đẻ khó, gia đình phải cúng heo, dê, trâu và rượu.
Đại gia đình người Lạch rất thương yêu, chăm sóc trẻ em, không bao giờ bỏ rơi trẻ em. Trẻ mồ côi được gia đình bên mẹ nuôi nấng, thỉnh thoảng người hàng xóm nuôi, dạy dỗ và đối xử như con ruột.
Trẻ em rất được quý mến; con gái được chuộng hơn con trai vì nhờ con gái về sau sẽ có thêm chàng rể, tăng thêm người lao động trong gia đình.
Trẻ em được giáo dục về sự đối xử với cha mẹ, các thành viên trong gia đình và phong tục buôn làng, chuẩn bị cho các em trở thành người lớn. Con trai được dạy về nghề nông, săn bắn, bắt cá, trong khi con gái học những công việc hằng ngày của người phụ nữ: nấu ăn, dệt thổ cẩm và chăm sóc các em nhỏ.
Người con gái út ở lại trong gia đình để chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già. Tuy nhiên, nếu người chị cả sống với cha mẹ, người con gái út có thể rời khỏi gia đình. Nếu người chị cả mất trước khi cha mẹ từ trần, người con gái út phải trở về chăm sóc cha mẹ. Con cái không bao giờ không phụng dưỡng cha mẹ.
Người Lạch chia trường hợp chết thành hai loại: chết tự nhiên và chết vì tai ương (tai nạn, bất đắc kỳ tử hay khi lọt lòng mẹ) do thần linh gây ra. Như các tộc người khác trên Tây Nguyên, người Lạch sợ phải chết xa buôn làng.
Người chết được tắm rửa và mặc y phục đẹp nhất. Nếu chết vào buổi tối, một con trâu, một con heo và một con gà được hiến tế. Nếu chết vào sáng sớm, lễ hiến tế được tổ chức ngay. Nếu chết vào ban ngày, lễ hiến tế được tổ chức vào lúc hoàng hôn.
Trong dịp ma chay, bạn bè và người thân của người chết đến viếng thăm, mang theo trâu, heo, gà và những ché rượu để dâ làng cùng hưởng. Người lớn uống rượu trước, sau đó đến thanh niên và cuối cùng là phụ nữ.
Lễ an táng được cử hành vào ngày thứ ba hay thứ tư sau ngày chết. Các ché rượu, ly chén được đập vỡ, bỏ vào một cái giỏ cùng với lễ vật và đặt gần mộ. Thân nhân người chết cũng đặt lên mộ một con gà, không giết gà nhưng để cho nó chết dần. Thân nhân tiếp tục mang thức ăn đến cho người chết trong vòng một năm, sau đó mới bỏ mả. Một số gia đình dựng nhà mồ trên mộ người thân.

Nhà mồ
Vợ chồng phải chịu tang trong một năm. Người chồng có thể cưới vợ khác sau thời kỳ chịu tang nếu gia đình vợ đồng ý hay người chồng lấy em gái vợ.
Tài sản được chia cho nữ giới. Trong gia đình có ba người con gái thì người chị cả được hưởng 3/10 gia tài, người thứ hai 2/10 và cô gái út được nửa gia tài vì cô gái út chịu trách nhiệm trả tổn phí lễ tang và giữ gìn mồ mả. Nếu ba chị em cùng ở trong một nhà thì cùng chịu trách nhiệm về lễ tang, sự kế thừa và các khoản chi tiêu trong gia đình được phân chia đồng đều.
*
Từ xa xưa, người Lạch chọn khu rừng rồi hạ cây, phát rẫy (mir) và đến cuối mùa khô họ đốt rẫy.
Trên mặt đất còn nóng và đầy tro, họ nhanh chóng gieo hạt bắp, lúa rẫy, bí, bầu, đậu,.... Người đàn ông đi trước, tay cầm một hay hai cây gậy có đầu nhọn chọc xuống đất với khoảng cách đều nhau. Người phụ nữ đi theo sau, tra hạt vào lỗ.
Sau 1, 2, 3 hay 4 năm, tuỳ theo tình trạng cạn kiệt của đất, người Lạch bỏ rẫy đi phát tiếp một khu rừng khác. Nếu đất tốt, cây rừng mọc lại thì 15 hay 20 năm sau, họ trở về tiếp tục phát rẫy. Nạn đốt rừng đã khiến cho nhiều khu rừng trở thành những ngọn đồi trơ trụi.
Về sau, người Lạch học được từ người Chu-ru kỹ thuật trồng lúa nước. Trong các thung lũng, dọc các dòng suối, họ cày bừa, sạ lúa và đào mương dẫn nước vào ruộng. Họ biết tận dụng sức nước và gió để chế tạo những công cụ xua đuổi thú rừng phá hoại mùa màng.
Người Lạch nuôi heo, gà, trâu, ngựa,... Con trâu là động vật linh thiêng nhất dùng trong tế lễ. Đối với thần linh, con trâu hiến tế thay mặt cho con người. Sau khi cúng tế, thịt trâu được chia cho thân nhân trong gia đình và dân làng như một hình thức đoàn kết trong cộng đồng. Heo, gà cũng được dùng trong cúng tế nhưng giá trị kém hơn trâu.
Người Lạch nuôi heo và đem xuống vùng đồng bằng để đổi muối. Cao nguyên Lang Bi-an hoàn toàn thiếu muối và món quà họ ưa thích nhất là muối. [70, 399 - 405]
Nuôi ngựa là một đặc điểm độc đáo của người Lạch. Ngựa không những là phương tiện đi lại, chuyên chở thích hợp ở vùng đồi núi nhấp nhô mà còn là hàng hoá để buôn bán với các cư dân khác trong vùng. [13, 183]
Người Lạch đan chiếu, trang trí vải dệt thổ cẩm, đồ dùng (con dao, hộp đựng thuốc lá, ống điếu,...), đồ trang sức (vòng bạc,...) với những nét thẳng, hình thoi, ô vuông, chữ chi,...hoa văn đa dạng trình bày hình ảnh mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, vảy đồi mồi, cối giã gạo, mỏ chim, bó tranh lợp nhà, cánh con ruồi, răng con trâu, con dế,... [27, 1.072 - 1.074]
Vào mùa khô, khi công việc nhà nông tạm dừng, người Lạch tổ chức thành từng đoàn đi xuống vùng đồng bằng Phan Rang, Nha Trang để trao đổi hàng hoá. Họ đổi da thú vật, heo,...lấy vải, muối, sắt, ché, chiêng,... Những chuyến đi xuống vùng duyên hải kéo dài vài tuần.
Chân đạp đất, lưng nặng trĩu hàng hoá, họ leo đồi, tuột dốc, đi ngang qua những khu rừng và chống chọi với thú dữ bằng dáo, mác và cung tên.
Thác ghềnh, sông rộng không ngăn chặn được bước chân của họ. Họ chọn những khúc sông suối cạn để vượt qua. Gặp những khúc sông suối sâu, họ kết bè hay dùng thuyền độc mộc. Họ cũng biết dùng phà cột với sợi dây mây dài hơn trăm mét. Đôi khi họ hạ cây cao bắc cầu qua suối.
Tài sản quý giá nhất là con trâu (rpu) dùng để cày bừa hay tế thần. Kế đến là ché (drap) và chiêng (cing).
Ché được xếp thành hàng dọc theo tường hay treo trên trần nhà. Các chiếc ché cổ giá rất cao, đổi được nhiều con trâu. Ché được xem là vật thiêng, vị thần hộ mạng. Nhiều lễ hội được tổ chức trong và sau khi mua bán ché, cũng như nhập ché vào nhà.
Giá trị của chiêng thay đổi tuỳ kích thước, hình dáng và nhất là nguồn gốc, tuổi tác, âm thanh. Giá trị hàng hoá được tính theo lưỡi cuốc, lưỡi rìu, chiều dài của sừng trâu, vòng ngực của con heo, thùng lúa, bắp, chăn, nồi niêu, ché, chiêng, đồ trang sức,...
*
Người Lạch tin vào thần linh. Vị thần cao nhất là Nđu. Truyện cổ kể rằng Nđu ăn cắp một hạt lúa từ địa ngục đem lên cho loài người nhưng lúa lại trở về tảng đá, nơi ngự trị của Mẹ Lúa (Me Kuê). Nđu mời Mẹ Lúa cùng đi nhưng bị chặn lối, Mẹ Lúa không lên được. Nđu ra lệnh cho con kiến đào đất để ăn cắp hạt lúa nằm dưới tảng đá. Bảy con kiến làm việc và mang được các giống lúa lên mặt đất. Sau đó, heo, vịt, gà, dê, trâu, rượu cũng lần lượt lên mặt đất. Nđu và Mẹ Lúa dạy con người biết trồng lúa và ăn cơm với thịt nai, heo, trâu, gà, cá.
Dưới thần Nđu có thần mặt trời (Yàng Tơngê), mặt trăng (Yàng Konghai), mặt đất (Yàng Tiêh), bầu trời (Yàng Trộ) và sấm sét (Yàng Dong Rong, Yàng Tơrnàih). Vô số thần linh ngự trị trong thiên nhiên: các ngọn núi, khu rừng, dòng suối, tảng đá, động vật như con cọp, các đồ vật trong buôn hay trong nhà: cổng buôn, dụng cụ, ché rượu,...
Ngoài các vị thần (Yàng) còn có ma quỷ (cạ, caạ) gây ra tai nạn, bệnh tật và chết chóc.
Hai vị thần quan trọng nhất là thần núi và thần nước. Thần cây cối giàu lòng từ thiện chịu trách nhiệm về lúa, bông vải và các vật liệu xây dựng.
Thần lúa (Yàng Kuê) giữ một vị trí đặc biệt vì là vị thần nuôi dưỡng con người. Thần lúa thường liên kết với thần đất (Kuê - Ú).
hần đất cũng được nhân cách hoá và sánh với người mẹ nên người Lạch thường gọi Mẹ Đất (Me Ú).
Trong lời khấn đọc bằng tiếng Chu-ru trong lễ nghi nông nghiệp còn nhắc đến thần Alăc -Alăn
“...tạo ra đất, trời, con người và muôn vật
tạo ra lợn nái, thóc lúa
tạo ra ché nhỏ
tạo ra ché lớn
tạo ra con bò
tạo ra con trâu
tạo ra chiêng lớn và con trâu nhỏ
tạo ra chiêng lớn và con trâu tơ”.
Người Lạch kiêng nhắc đến tên cúng cơm của cha mẹ, không nói khát nước vì sẽ không có nước để uống, không nói ruộng lúa tốt vì sẽ bị mất mùa, không được phá tổ kiến.
Trong một số trường hợp, nhà cửa cũng bị kiêng cữ, không cho người ngoài vào nhà trong 7 ngày sau khi nhà có người sinh nở, 3 hay 7 ngày sau khi cúng tế và một thời gian ngắn khi người bệnh uống thuốc. Kho thóc cũng bị cấm, người ngoài không được vào.
Mỗi buôn có một khu rừng thiêng (Yàng Bri) - nơi ngự trị của thần linh. Dân làng không được chặt cây vì thần linh sẽ trả thù bằng cách gây dịch bệnh, ốm đau hay chết.
Người Lạch tin có ngày tốt, ngày xấu. Ngày lẻ là ngày tốt, ngày chẵn là ngày xấu. Tre phải chặt trong ngày lẻ. Thời gian tốt nhất để gieo mạ là ngày thứ nhất hay ngày thứ ba của tuần trăng thượng huyền hay các ngày thứ 1, 3, 5, 7, 9 của tuần trăng hạ huyền. Những chuyến đi buôn cũng phải khởi hành vào ngày lẻ. Vào những ngày lẻ, nếu đi câu hay bắt cá, săn bắn sẽ thu được kết quả tốt hơn. Vào ngày cuối cùng của tháng âm lịch, không được ra đồng làm việc.
Tháng cũng có tháng tốt, tháng xấu. Tháng 5 là tháng tốt nhất để gieo trồng và tháng 8 là tháng xấu nhất trong nghề nông.
Người Lạch cũng hay đoán mộng:
Nếu nằm ngủ mơ thấy uống rượu có nghĩa là ngày mai trời sẽ mưa;
mơ thấy người chết : mất mùa;
bắt gà : ngày mai sẽ bắt được nhiều cá;
con trâu chết, nai bị giết : trong làng sẽ có người chết.
Một số giấc mơ có ý nghĩa trái ngược: nếu mơ thấy giàu sẽ nghèo, nếu mơ thấy mạnh khoẻ sẽ mắc bệnh. [27, 1.191 - 1.193]
*
Lễ hội có liên quan đến chu kỳ nông nghiệp và đời sống cư dân. Lễ hội quan trọng nhất là lễ đón năm mới (lir bong). Thời gian tổ chức lễ hội thay đổi từ buôn này đến buôn khác, nhưng thường vào mùa xuân, từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 5, kéo dài từ 4 đến 5 ngày.
Buổi sáng ngày đầu tiên, dân làng uống rượu rồi đâm trâu. Số lượng trâu là 3, 4 hay 5 con tuỳ theo buôn giàu hay nghèo. Đầu trâu và 4 chân được đặt trên chòi để cúng thần linh. Sau khi cạo lông trâu, dân làng xẻ thân trâu ra thành nhiều miếng và nướng trên đống lửa.
Lễ hội diễn ra trong tiếng trống chiêng vang rền.
Những ngày hôm sau cũng tiếp tục như ngày đầu tiên. Dân làng cũng không quên người chết, mang ra mộ thức ăn và rượu.
Từ khi sạ đến khi gặt lúa, người Lạch tiến hành nhiều lễ nghi.
Lễ sạ lúa (kuê ụ) đánh dấu thời kỳ cây lúa cùng sống với đất mẹ. Người ta dựng một cây nêu cao 1,1 - 1,3m làm bằng tre có đầu ngọn chẻ đôi, đặt ở mảnh đất đầu tiên cuối nguồn nước. Trên đầu cây nêu có treo các vật cúng: thịt gà, các cây pơndàng và dêng rồ để gọi lúa về và tăng năng suất.
Con trâu rất được kính trọng vì rất cần thiết trong nông nghiệp. Con trâu được hiến sinh khi con cái muốn tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ và nhất là khi mắc bệnh nặng. Sau khi cày bừa, người Lạch cử hành lễ tôn vinh trâu tổ chức ở trước nhà vào buổi chiều.
Người ta rửa cổ trâu vì cổ trâu phải đeo ách. Con trâu được xức rượu cần và máu gà. Người chủ nhà khấn thần trâu chữa lành vết thương cho trâu, đàn trâu được khoẻ mạnh, không bị dịch bệnh và xin thần linh tha thứ cho con người phải bắt trâu làm việc.
Khi cây lúa ngậm sữa (kuê bôn), người Lạch lại tiến hành lễ nghi khác. Nhiều loại cây nêu được dựng lên để các thần linh chú ý.
Một ngày trước khi gặt, người Lạch cử hành lễ lúa chín (kuê dôm). Người ta gặt vài bông lúa, đặt trên ruộng và khoảnh đất đập lúa để báo với thần linh sẽ gặt lúa và thần linh không ngăn cản. Trong dịp này, người Lạch kiêng cữ không cho mang thịt nai đến và ăn thịt nai vì con nai phá lúa.
Trước khi đập lúa, người Lạch giết gà và đổ rượu lên mặt đất để giữ thần lúa ở lại.
Khi lúa đã đập xong và thóc chất thành đống, người Lạch cử hành lễ nghi mời thần linh ăn cháo (huê yàng sih dà pòr).
Sau đó là lễ đưa thần lúa về nhà (nỡu truê rơhae).
Lễ nghi nông nghiệp cuối cùng là lễ mừng lúa mới (pờ bộ kuê). Lễ này rất đơn giản, người Lạch chỉ cúng hai quả trứng và khấn cầu thần lúa.

Một số câ Nêu
Lời cầu nguyện khi sạ lúa, khi lúa ngậm sữa và lễ hội ngày mùa được đọc bằng tiếng Chu-ru.
Ngoài những câu ca ngợi thần linh, người hành lễ nhắc đi nhắc lại những câu mời thần lúa:
“đến ăn
đến uống
đến hát
từ hôm nay đến mai sau
từ hôm nay đến mãi mãi”
và xin thần linh:
“Con cầu xin bình an
Con cầu xin mạnh giỏi
Con cầu xin tự do
cho mọi người và muôn loài.
Con cầu xin một trăm gùi thóc
một ngàn gùi thóc
một triệu gùi thóc
một tỷ gùi thóc
nhà con đầy thóc
Con cầu mong trụ kho sẽ gãy vì lúa nặng”
... “Mọi người sống trong nhà
và tất cả dân trong buôn
Xin Người cứu họ khỏi chết
cứu họ khỏi đói
cứu họ khỏi bệnh
cứu họ khỏi gặp điều xấu
Xin Người theo dõi chúng con
phù hộ chúng con”
... “Xin Người biến những người nghèo thành giàu
Xin Người cho những người yếu sức mạnh”.
Lời cầu nguyện khi đập lúa và nhập thóc vào kho được đọc bằng tiếng Lạch:
“Hỡi lúa trên trời cao
Hỡi lúa trên mặt trăng
Hỡi lúa trên các vì sao
Hỡi lúa của gió
Hỡi lúa trong các tia chớp
Con xin gọi về
Hỡi lúa bị gió thổi
Hỡi lúa bị ngâm nước mưa
Hỡi lúa bị chim ăn
Hỡi lúa bị chim sẻ mổ
Hỡi lúa bị chim cu gáy thu lượm
Con xin gọi về
Hỡi lúa đã bỏ đi vì cãi lộn với cha
Hỡi lúa đã bỏ đi vì gây gổ với mẹ
Hỡi lúa đã bỏ đi vì lưỡi dao và liềm con đã dùng khi gặt lúa
Hỡi lúa đã bỏ đi vì sợ các vị thần con đã mời về
Hỡi lúa đã bỏ đi vì sợ các vị thần đã đánh nhau trong bữa tiệc
Hỡi lúa mà dân làng khiếp sợ
Con xin gọi về”
... “Hỡi lúa Jrơi Dờng của buôn Tơl hồng
Hỡi lúa Bờng của buôn Kơnjàn
Hỡi lúa Suàn của buôn Bồng-dêng
Hỡi lúa Sêng của buôn Lạc-dờng
Con xin khấn cầu”
... “Nếu Người mệt, xin Người đến đây nghỉ ngơi
Nếu Người đói, xin Người ở mãi nơi đây
Nếu Người quá mệt vì đi xa, xin Người nghỉ ngơi nơi đây
Hỡi lúa!”
... “Hãy xuống đây để uống
Hãy xuống đây để ăn
Hãy xuống đây để nhảy múa
Hãy xuống đây để ca hát”
... “Nếu Người là một trăm, con xin Người đến đây
Nếu Người là bảy trăm, con xin Người đến đây
Nếu Người là năm trăm, con xin Người đến đây
Con xin mời, hỡi lúa phương Bắc
Con xin mời, hỡi lúa phương Nam
Cầu xin đầy gùi khi mặt trời mọc
Cầu xin lúa giã trong quả bầu lên men
Cầu xin rượu trong ché lên men và ruồi đẻ trứng”
...“Khi mặt trời mọc, xin Người đến đây ăn
Khi mặt trời lên cao, xin Người đến đây ăn
Khi mặt trời lặn, xin Người đến đây xum họp”
...“Xin Người ở lại với con
ở lại rất đông
ở lại đến khi sinh nở” [39, 3 - 77]
*
Cũng như người Cơ-ho khác, kho tàng văn học dân gian của người Lạch rất phong phú gồm có ca dao, tục ngữ, câu đố, truyện cổ và các ca khúc.
“Ngal ờ rồl ai yồt pơntài
Sre ờ bà ai dà pơ yuai
Rơpu ờ jè ai gai atòng”.
(Cày không ăn đất thì dùng dây cho dài
Ruộng không ướt phải cho nước vào
Trâu không đi thì lấy roi quất).
Nhiều câu tục ngữ dạy cách cư xử, đề cập đến phong tục, tập quán hay nhận xét về các hiện tượng thiên nhiên, các điều mê tín, dị đoan:
Nếu về đêm ngôi sao sáng, hôm sau trời sẽ nắng; nếu ngôi sao nhấp nháy, trời sẽ mưa.
Nếu trên đường đi anh thấy một con rắn, anh sẽ tìm thấy những gì anh muốn tìm.
Nếu con chó sinh ra 3 con chó con, đi săn nai rất tốt;
Nếu con chó sinh ra 2 con chó con, đi săn chuột rất tốt.
Thỉnh thoảng người Lạch nói ngược hay bóng gió. Ví dụ: Nếu một người nói đi kiếm củi trên núi có nghĩa là anh đi săn nai. Nếu người ấy nói: “Tre đã sẵn sàng, anh đốn đi!” có nghĩa là rượu đã sẵn sàng, mời anh uống.
Trong thời gian nhàn rỗi, người Lạch thường đố nhau:
Cây đuốc gì mạnh đến nỗi chiếu sáng cả vũ trụ?
Trả lời: Mặt trăng
Trái gì màu đỏ, người ta không thể sờ mó và cầm trong tay?
Ngọn lửa
Người nào môi mấp máy nhưng thân không động đậy?
Thầy cúng
Con rắn đi đêm đi ngày, đố là cái gì?
Dòng nước
Cô bé nho nhỏ nhưng ai cũng kêu đau?
Con muỗi
Mình còn sống mà đã lo đeo hòm?
Con sâu
Truyện cổ của người Lạch đôi khi rất dài, kể hết đêm này sang đêm khác. Truyện cổ có thể chia thành 5 loại:
- Truyện kể về nguồn gốc các đồ vật và vũ trụ;
- Sự tích các anh hùng huyền thoại;
- Truyện kể về các nhân vật có những hành động kỳ diệu;
- Truyện ma quỷ (caạ) hay truyện người hoá cọp (somri);
- Truyện loài vật.
Trong truyện cổ, loài vật cũng có cuộc sống như loài người. Chúng có nhà, buôn làng, đồng ruộng, nông cụ, sống theo bộ tộc với phong tục, tập quán, ngôn ngữ như con người. Chúng cũng giã gạo, sử dụng vũ khí, giáo, mác, dao găm, khiên, đánh chiêng, đánh trống,...[30, 184]
Người Lạch rất yêu thích âm nhạc. Họ cất lên tiếng hát khi giã gạo, kéo cưa, múa, sinh hoạt gia đình, giao lưu bè bạn,... với những câu hát ngắn, lặp đi lặp lại nhiều lần, diễn tả niềm vui, nỗi buồn, nạn đói,...
Nhạc cụ có nhiều loại: sáo 4 lỗ (kơwao), sáo pnung bòc dùng trong lễ tang, sáo bầu 4 lỗ (kơrkhuk, barê), khèn bầu (kơmbuôt, komboat) với 6 ống cắm vào một quả bầu tạo thành thùng cộng hưởng, đàn môi (gọch, toung), đàn dây (rơding) làm bằng tre, trống (sơgơr, sơnggơr) bịt 2 đầu bằng da nai hay trâu tơ,...
Chiêng đồng rất quý, trị giá bằng 8 hay 10 con trâu cái. 2, 3, 4 hay 6 người dùng nắm tay tấu chiêng, tạo ra những hoà âm: sol, la (tấu 2 chiêng); sol, la, si (tấu 3 chiêng); fa, sol, la, si (tấu 4 chiêng); si, ré, fa, sol, la, si (tấu 6 chiêng) [27, 1.078 - 1.080]
ĐẠ LẠCH
Theo một số cụ già người Lạch, suối Cam Ly chảy qua thành phố Đà Lạt có 3 đoạn mang 3 tên khác nhau:
- Từ thượng nguồn đến ao Pàng Đờng (Tơnau Pàng Dòng) ở vị trí hồ Than Thở ngày nay, dòng suối mang tên Dà Pàng Dòng (Pàng: ông; Dòng: lớn);
- Từ ao Pàng Đờng đến thác Liêng Tô Sra (nay là thác Cam Ly), dòng suối mang tên Đạ Lạch (Dà Làc);
- Từ thác Liêng Tô Sra đến sông Đạ Đờng, dòng suối mang tên ông Mlơi (K’ Mlơi).
Về sau, K’ Mlơi nói trại thành Cam Ly, Đạ Lạch thành Đà Lạt.
Đạ (dà) chỉ chất lỏng và có nhiều nghĩa:
- nước (Anh nhô dà : tôi uống nước);
- suối (Dà K’ Mlơi : suối Cam Ly);
- dòng nước (Dà Dờng : dòng nước lớn, sông);
- dầu (Dà ồs : dầu lửa);
- nhựa (Dà chi : nhựa cây);
-...
Trong nhật ký ngày 21-6-1893, bác sĩ Yersin (Y-e-xen) không ghi tên buôn Đạ Lạch, chỉ ghi tên buôn Đăng Kia. Đăng Kia là buôn lớn nhất trên cao nguyên Lang Bi-an lúc bấy giờ.
Trên bản đồ Đông Dương in trong hồi ký của Toàn quyền Paul Doumer (Pôn Đu-me), không thấy ghi Dalat nhưng có địa danh Dangkia. [29, 336]
Năm 1881, bác sĩ Paul Néis (Pôn Nê-ítx) đã lên cao nguyên Lang Bi-an và cho biết trong hai ngày 16-3-1881 và 7-4-1881 ông đã đến làng Lạch (village de Late).
Năm 1899, bác sĩ Tardif từ trên dãy núi Lang Bi-an đã nhìn thấy:
“Hình dáng mấp mô của cao nguyên thật là lạ lùng! Tôi leo lên một trong năm đỉnh núi. Một cảnh quan kỳ diệu hiện ra trước mắt tôi. 150 đồi núi xanh rờn giống như một thúng cam khổng lồ. Trong vùng núi đồi trùng điệp có vài làng mạc: ở phía Nam, Đà Lạt (Dalat); hơi chếch về hướng Tây, Đăng Gia (Dang Gia) và Ăn Krô-ét (Ankroet); dưới chân núi, Bờ Nơ (Beneur). Xa xa, về hướng Đông là dãy núi Nha Trang; về phía Nam, hoành sơn của thung lũng sông Đồng Nai; về phía Tây và Tây Nam, những đỉnh núi cao của Căm-pu-chia”.[50, 36]
Năm 1905, trong một dịp lên cao nguyên Lang Bi-an để thay đổi không khí, bà Gabrielle M. Vassal (Ga-bri-en-lơ M. Vát-xan) đã viết về cao nguyên:
“Vào khoảng giữa trưa, tôi thấy cao nguyên lần đầu tiên. Thật là một sự phát hiện bất ngờ, khác với những gì trước đây tôi đã từng nghĩ! Trên một vùng đất rộng là những ngọn đồi tròn, nhỏ, trơ trụi, mọc đầy cỏ thấp, cùng hình dáng và độ cao, quang cảnh giống như một vùng biển gợn sóng xanh. Ở giữa, những đỉnh núi Lang Bi-an cao vòi vọi như hòn đảo đá. Đăng Kia (Dankia) nằm ở dưới chân núi Lang Bi-an, ở phía bên kia cao nguyên. Cao nguyên bình yên và êm dịu quá! Chỉ có thông mọc trong những thung lũng giữa các ngọn đồi.
Xa xa, những mái nhà gỗ ở Đà Lạt (Dalat) nằm cách xa nhau trên đỉnh hay lưng chừng đồi lấp lánh dưới ánh mặt trời”. [69, 212]
Trong bản báo cáo về chuyến khảo sát bệnh sốt rét trên cao nguyên Lang Bi-an từ ngày 16-7 đến ngày 2-9-1905, bác sĩ Vassal công tác tại Viện Pasteur (Pa-xtơ) Nha Trang có nhắc đến các làng: Dalat, Dankia, Beneur, Ankroet, Numbor.
Hiện nay có những ý kiến khác nhau về buôn làng ở Đà Lạt.
 
* Trước thế kỷ XX, trên địa bàn Đà Lạt có nhiều buôn ở các vị trí sau:
BON
VỊ TRÍ HIỆN NAY
Yộ
Rhàng Bon Ỵô
Klir Towach
Dàgut
Rhàng Pàng Mly
Mang Linh
Mho Prềnn
Đồi trường Cao Đẳng Sư phạm Đà Lạt
Học viện Lục Quân
Khóm (ấp) Hồng Lạc
Bệnh viện Đa khoa Lâm Đồng, khóm (ấp) Mỹ Lộc
Chân thác Cam Ly
Sân bay Cam Ly
Dọc suối Prenn
* Đầu thế kỷ XX, ở Đà Lạt có nhiều buôn ở các địa điểm hiện nay là: Bệnh viện Đa khoa Lâm Đồng, gần thác Cam Ly, đường Phan Bội Châu,... buôn lớn nhất là Bon Yộä ở trên đồi Trường Cao đẳng Sư phạm hiện nay. Vì ở gần suối Đạ Lạch nên Bon Yộ còn gọi là Bon Đạ Lạch (Bon Dà Làc).
Cư dân buôn Đạ Lạch trồng lúa nước dọc theo suối Đạ Lạch. Năm 1919, Hồ Lớn (hồ Xuân Hương ngày nay) được xây dựng, ruộng lúa nằm trong lòng hồ, người Lạch ở buôn Đạ Lạch phải dời đến Bon Rơhàng Kròc (Rơhàng: buôn cũ; kròc: cam; plê kròc: trái cam; người Pháp phiên âm là Ankroet). Đến năm 1942, khi xây dựng đập Suối Vàng, người Lạch lại phải dời đến buôn Đơng Tiang Đe (Tiang: đuôi, đe: con chuột) ở trung tâm huyện Lạc Dương hiện nay.
Theo ý kiến này, Đà Lạt không những mang tên dòng suối Đạ Lạch nhưng còn mang tên buôn Đạ Lạch như thành phố Buôn Ma Thuột (Buôn: làng; Ama: cha; Thuột: tên người con), Plây Cu (Plei: buôn làng; ku: đuôi) hay các thị trấn: Đạ M’Ri (dà: nước, suối,...; tam: trong; bri: rừng), Đắc Nông (Đắc Lắc), Đắc Sút, Đắc Tô (Công Tum),...
NGƯỜI KINH TRÊN CAO NGUYÊN LANG BI-AN
Ngày xưa, Lâm Đồng nói chung, cao nguyên Lang Bi-an nói riêng vẫn còn rất hoang vu.
Đại Nam nhất thống chí xuất bản dưới triều Nguyễn cho biết:
Di Dinh thổ phủ có 20 buôn: Phí Bà Nam, Băng Dựng, Giang Trang, Phi Chân, Phi Lộ, Băng Trang, Tầm Bạch, Thẩm Luật, Bàn Tấu, La Miên, Năm Luân, Giang Tre, Băng Bí Thuỷ, Băng Bí Hoả, Lưu Miên, Băng Trinh, Năng Duy, Phí Cố, Chân Dựng, Phi Chinh (1).
Tư liệu có nhắc đến một dòng sông:”Tây hữu Dã Dương giang bất thâm nhi quảng, trung đa ngạc ngư” (Ở phía Tây có sông Dã Dương (2) không sâu mà rộng, trong đó có nhiều cá sấu).
Tư liệu còn giới thiệu về sinh hoạt cư dân ở hai bên bờ sông này: Ở phía Nam sông, người Hoa thỉnh thoảng có đi lại buôn bán. Ở phía Bắc sông, ít có ai đến. Năm Tự Đức thứ 19, triều đình có phái người đi thăm dò nhưng vì người Thượng sợ tránh, không dám dẫn đường nên phải trở về. [3]
Năm 1877, trong thời gian làm Dinh điền sứ tỉnh Bình Thuận, Nguyễn Thông (1826 - 1894) - một sĩ phu yêu nước - đã tổ chức thám hiểm vùng đất giữa ba con sông: La Ngà, Đạ Hu-oai và Đồng Nai với dự định lập đồn điền khai khẩn vùng thượng du. Ông đã phái Nguyễn Văn Trị, Sĩ Văn Long, Dương Văn Long và Hoàng Phú đến sông Đạ Đờng để xem xét tình thế. Trong tờ sớ dâng lên vua Tự Đức ngày 11 tháng 8 năm Tự Đức thứ 30 (17-9-1877), ông viết:
“Ngày mùng 8 tháng 6 thì đến sông lớn Đạ Đưng, rộng khoảng năm sáu mươi trượng, nước đục ngầu, giữa có đảo dài. Người Man gọi nước là “đạ”, lớn là “đưng”, cũng như người Việt nói là “sông lớn”. Đạ Đưng, người Việt gọi là sông Dã Dương, hạ lưu là sông lớn Thần Quy. Từ sách Man Mê-pu đi đến sông Tô Sạ, dọc đường phần nhiều là núi cao, từ Côn Hiên đến sông Đạ Đưng đều là đất bằng, địa thế rộng rãi, khoảng khoát, có thể khám xét để lập đồn điền khẩn hoang.”[2, 197]
Cao nguyên Lang Bi-an là một vùng ma thiêng nước độc, người Kinh không dám định cư bên kia sông Krong Pha, chỉ dừng lại ở Xóm Gòn (gần Krong-pha, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận hiện nay) vì cọp beo, rắn rết và nhất là bệnh sốt rét rừng.
Ông Canivey (Ca-ni-vây) là một người Pháp đã sống trên cao nguyên Lang Bi-an để thu thuế.
Năm 1905, trong bữa ăn trưa ở nhà ông Canivey tại Đà Lạt, bà Gabrielle M. Vassal đã được nghe vợ chồng ông Canivey kể một câu chuyện về cọp xảy ra 4 năm về trước:
“Hôm ấy, cách nhà không xa, vợ chồng ông Canivey thấy một con cọp ở bìa rừng. Ông Canivey giơ súng lên bắn. Con cọp bị thương gầm thét chạy vào rừng. Một người lính Việt xách súng cùng ông đuổi theo. Xuyên qua cành cây, bà Canivey thấy con cọp dùng hai chân trước vồ vào vai của chồng bà và ngậm khẩu súng. Người lính tiến gần lại và nổ súng vào đầu con cọp. Con vật rống lên và ngã quỵ xuống đất. Bà Canivey chạy đến, thấy chồng bà máu me đầy mình. Ông đi bộ về nhà, nhưng lúc bấy giờ không có bác sĩ, ông phải nằm mê man mấy ngày liền. Bà vẫn còn hãi hùng khi nghe cọp gầm về đêm.” [69, 213 - 214]
Năm 1907, chồng bà Gabrielle - bác sĩ J.J.Vassal - cho biết:
“Người Kinh chưa định cư trên những vùng cao của dãy Trường Sơn. Ở Đà Lạt có một nhóm 60 đến 80 người Kinh, hầu hết là những người đi buôn chuyến. Họ sống trong những điều kiện rất khổ cực, mặc ít áo quần như ở vùng đồng bằng, bị lạnh, thiếu dinh dưỡng và không có gia đình. Từ Phan Rang hay Phan Thiết lên cao nguyên, với những gánh hàng hoá, họ đi ngang qua những làng mạc đầy nước độc, những vùng rất nguy hiểm và mắc phải bệnh sốt rét.”[51, 358]
Một số tư liệu viết về hồ Than Thở thường nhắc đến câu chuyện tưởng tượng Hoàng Tùng - Mai Nương:
Hoàng Tùng chia tay Mai Nương bên bờ hồ Than Thở, ra đi theo nghĩa quân Tây Sơn. Nghe tin Hoàng Tùng tử trận, Mai Nương nhảy xuống hồ tự vẫn. Mấy tháng sau, Hoàng Tùng trở về nhưng Mai Nương không còn nữa. Khi nghe tin triều đại Tây Sơn sụp đổ, Hoàng Tùng buồn bã nhảy xuống hồ chết theo Mai Nương. Do đó hồ này về sau gọi là hồ Than Thở.
Vào thời Tây Sơn, người Việt chưa định cư trên cao nguyên Lang Bi-an, ở vị trí của hồ Than Thở hiện nay chỉ có một cái ao nhỏ (Tơnau Pàng Dòng).
Năm 1920, người Pháp cho đắp đập chặn nước tạo thành hồ cung cấp nước sinh hoạt cho một phần thành phố Đà Lạt.
Nhận thấy vùng này rất hoang vu, chỉ nghe tiếng gió rì rào qua kẽ lá tạo thành một khúc nhạc buồn, người Pháp mới đặt tên là Lac des Soupirs.
Từ điển Petit Larousse xuất bản năm 1965, trang 983, định nghĩa chữ SOUPIR như sau:
SOUPIR: Respiration forte et prolongée, occasionnée par la douleur, une émotion.
Poét. Son doux et mélancolique: les soupirs du vent dans les bois.
Rendre le dernier soupir: mourir.
Mus. Pause qui équivaut à une noire.
Tạm dịch:
1. Sự thở mạnh và kéo dài khi đau đớn, xúc cảm.
2. Trong thơ, tiếng động êm dịu và du dương: tiếng gió thổi trong rừng.
3. Thở hơi cuối cùng: chết.
4. Trong âm nhạc, dấu nghỉ tương đương với nốt đen.
Như vậy, nghĩa thứ hai (tiếng gió thổi trong rừng) là đúng nhất. Nhưng Lac des Soupirs khi dịch sang tiếng Việt nếu dịch là hồ Rì Rào, hồ Gió thổi trong rừng không thuận nên đành dịch theo nghĩa thứ nhất: hồ Than Thở.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét