TTO - Cầu Muối là một chiếc cầu gỗ xưa bắc ngang một con kênh (nay là đường Nguyễn Thái Học, Q.1, TP.HCM) dẫn nước ngang qua kho muối thuộc Nhơn Hòa Xã.
| Bảng tên Chợ Cầu Muối ghi rất rõ năm thành lập 1947 và năm tái thiết 1971, sau cơn cháy lớn thiêu rụi hết chợ - Ảnh: HỒ TƯỜNG |
Con kênh này chảy đến tận khu vực Cầu Quan (nay là khu vực đường Yersin - Nguyễn thái Học - Phạm Ngũ Lão, Q. 1, TP.HCM).
Kho muối này có dưới thời nhà Nguyễn, xây dựng thành hai dãy nhà lá dọc trên bờ kênh, chứa muối từ Phan Thiết và Bạc Liêu chuyển về để xuất khẩu sang Cao Miên (tức Campuchia ngày nay).
Năm 1859, Pháp tấn công thành Gia Định, dân cư Sài Gòn ly tán, những kho muối dọc trên hai bờ kênh ở Nhơn Hòa Xã trở nên hoang phế.
Nhưng từ năm 1862 trở đi, khi tình hình tạm ổn định, bà con lần lượt hồi cư, nhưng rất thưa thớt.
Thần hoàng ba làng Sài Gòn xưa chung đình Cầu Muối
Chính quyền Pháp lúc đó cũng giải tỏa làng Tân Khai nằm ở khu vực xung quanh thành Gia Định (nay là khu vực đường Nguyễn Huệ và đường Lê Lợi, Q. 1, TP.HCM) và làng Tân Hòa nằm ở khu vực Gò Tân Triêm xưa, ngoài thành Gia Định (nay là khu vực bao bọc bởi các đường: Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Cư Trinh, Cống Quỳnh, Q. 1, TP.HCM).
Đồng thời chính quyền Pháp hình thành những cơ sở vật chất phục vụ cho bộ máy thống trị lâu dài: thành lính, ngân hàng, dinh thự quan lại…
Ông Hồ Văn Tồn, Phó ban quản lý đình Nhơn Hòa (Q.1), khi còn sống, từng cho biết rằng đình làng Tân Hòa và đình làng Tân Khai bị giải tỏa, cho nên sắc phong vua ban cho hai đình này đã phải tạm thời rước về cất giữ chung với sắc phong của đình làng Nhơn Hòa (còn gọi là đình Cầu Muối vì nằm gần chiếc cầu cạnh kho muối).
Do vậy mà đình Nhơn Hòa đến nay vẫn còn 3 khám thờ to lớn và trang trọng nằm ngang nhau, thờ Thần Thành Hoàng của 3 làng, nằm trong khu chánh điện ngôi đình.
| Chợ Cầu Muối nay không còn, nhưng bảng tên vẫn còn treo ở phía đường Nguyễn Thái Học - Ảnh: HỒ TƯỜNG |
Ông Nguyễn Quấc Kiết, một lão hội viên kỳ cựu của Hội đình Nhơn Hòa, lúc sinh tiền kể Cậu Hai Miên vốn là con quan lớn, nhà cửa giàu có nằm trên địa bàn của làng Tân Hòa xưa.
Khi làng Tân Hòa bị nhập chung về làng Nhơn Hòa sau khi chiến tranh chấm dứt, Cậu Hai Miên đã giúp đỡ nhiều về tiền bạc lẫn uy danh cho ban hội hương đình Nhơn Hòa. Cho nên sau khi Cậu Hai thất lộc vào năm 1899, ban hội hương đã cho khắc bài vị bằng gỗ để thờ thật trang trọng tại nhà hậu sở của đình, tương đương với các bậc tiền hiền, hậu hiền của đình làng.
Cây Cầu Muối mất lâu lắm rồi nhưng chợ Cầu Muối giờ vẫn vang danh
Khoảng năm 1893, con kênh dẫn nước từ rạch Bến nghé chạy ngang kho muối bị người Pháp lấp đi. Dĩ nhiên chiếc cầu mang tên Cầu Muối cũng không còn vì không còn kênh để bắc cầu và cũng không còn kho muối nữa.
Ngay trên mảnh đất của kho muối năm xưa, Pháp đã mở một lò giết mổ gia súc, trong đó nhiều nhất là heo, để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của quan chức Pháp cũng như cho cư dân quanh vùng.
Do đó, con đường hình thành từ việc lấp kênh đã trở thành đường Abattoir (nghĩa là đường ngang nơi giết mổ gia súc, bà con gọi đơn giản là đường Lò Heo).
Sau này, khoảng thập niên 1930 - 1940, khi Lò heo mới, hiện đại hơn được hình thành ở khu vực Chánh Hưng (nay thuộc Q. 8, TP.HCM) thì khu vực Lò heo hình thành trên khu vực Cầu Muối bị giải tỏa, lại trở nên hoang phế.
Lúc đó, Pháp đổi tên đường Abattoir thành đường Kitchener, rồi sang thời Ngô Đình Diệm đổi thành đường Nguyễn Thái Học cho đến ngày nay.
Năm 1947, một số tiểu thương đang buôn bán trái cây từ miền Tây Nam Bộ lên chợ Cầu Ông Lãnh đã có sáng kiến mua rau cải đặc sản từ Đà Lạt về phân phối trên khu đất hoang của khu vực Lò Heo cũ, cũng là kho muối cũ, Cầu Muối cũ.
Chất lượng, giá cả rau cải mua trực tiếp tại nhà vườn Đà Lạt khá rẻ đã giúp những tiểu thương này buôn may bán đắt. Từ đó, một khu chợ mới đã được hình thành với mặt hàng độc quyền là rau cải Đà Lạt, như: cà rốt, khoai tây, bông cải, cải bắp, cà chua, củ hành tây, su hào, su su, củ dền, ớt chuông…
Chợ mới này nằm ngay trên khu vực kho muối, Cầu Muối xưa, gần sát đình Cầu Muối cho nên đã mang luôn tên gọi “Chợ Cầu Muối”.
Nhiều người có tiền ở miền Tây Nam Bộ thấy một số người đồng hương thành công, đã xúm nhau kéo nhau lên chợ Cầu Muối mở sạp, vựa buôn bán hàng rau cải Đà Lạt mưu cầu cho sự đổi đời: từ nông dân tay lấm chân bùn trở nên chủ sạp, chủ vựa khá giả.
| Chợ Cầu Muối nhưng năm 60 thế kỷ 20 - Ảnh tư liệu |
Chợ Cầu Muối cho đến năm 2003, trước khi giải tỏa để chuyển sang chợ đầu mối ở Tam Bình (Thủ Đức), Tân Xuân (Hóc Môn), đã có hơn 300 sạp, vựa.
Hầu hết các sạp vựa của chợ Cầu Muối đều kinh doanh chủ yếu là rau cải Đà Lạt, riêng các sạp vựa nằm phía đường Cô Bắc lại chuyên kinh doanh về rau cải Hóc Môn phục vụ cho bữa ăn hàng ngày, như: cải bẹ xanh, bầu, bí, mướp, sả, gừng, nghệ, các loại rau sống…
| Quày bán rau cải Đà lạt bên lề đường của chợ Cầu Muối ngày nay, không còn mua bán ầm ĩ, không còn lo bảo kê - Ảnh: HỒ TƯỜNG |
Bà con lao động nghèo Cầu Muối xưa mong cậu phò hộ yên ổn
Hàng hóa chợ Cầu Muối hầu như chỉ bán sỉ cho tiểu thương từ các nơi mua về bán lẻ lấy lời. Việc mua bán sỉ luôn có lượng hàng hóa lớn, cho nên các chủ sạp, chủ vựa ở chợ Cầu Muối đã nảy sinh nhu cầu sử dụng lao động phổ thông khá lớn.
Hàng rau cải Đà Lạt cũng như Hóc Môn từ xe tải muốn đưa vô sạp, vựa phải cần phu khuân vác; hàng hóa rau cải từ Đà Lạt về còn dính đất đỏ, bề ngoài chưa đẹp lại cần người chà rửa, cắt lặt, gọt củ, đóng gói… mới bán lời cao; rau cải từ vựa hay từ sạp mang giao hàng cho mối lái lại phải nhờ đến lực lượng phu khuân vác…
Thế là lớp lớp dân lao động nghèo, không có đất đai canh tác, không có tiền bạc vốn liếng từ các vùng quanh Sài Gòn, Gia Định và cả ở miền Tây Nam bộ đã lục tục kéo nhau về chợ Cầu Muối để mưu sinh.
Dân cư Cầu Muối được hình thành, cư trú ngay tại chợ, ngay trong các sạp, vựa cũng như trong các xóm nghèo nằm núp mình trong các con hẻm nhỏ chung quanh khu vực chợ Cầu Muối.
Tuy sinh hoạt có khác nhau: kẻ làm chủ, người làm thuê, nhưng tất cả cư dân Cầu Muối đều có chung một mong ước là được yên ổn làm ăn.
Đình Nhơn Hòa, nằm kế cận chợ Cầu Muối, là nơi thờ vị 3 Thần Thành Hoàng phù hộ cho dân cư tại chỗ, nên lớp cư dân mới ở chợ Cầu Muối đã thường xuyên đến lễ bái, cầu nguyện.
Đặc biệt là nhiều bà con lao động khẩn cầu Cậu Hai Miên được thờ tại nhà hậu sở của đình, với niềm tin khi sống Cậu Hai đã bao phen ra tay nghĩa hiệp giúp người thất cơ, lỡ vận thì khi thác đi Cậu Hai sẽ tiếp tục phù hộ cho mọi người trong cuộc mưu sinh.
Cậu Hai Miên thất lộc ở tuổi còn quá trẻ (38 tuổi), người ta tin rằng như vậy sẽ rất linh thiêng.
"Đại ca" Hai Miên sống ngang tàng nghĩa hiệp, chết vô đình
TTO - Cậu Hai Miên tên thật là Huỳnh Công Miên, sinh năm 1862 tại xứ Gò Công (nay thuộc vùng Gò Công Đông, Tiền Giang). Chết trong vòng vây 40 tay “đâm thuê chém mướn” ở khu vực Cầu Kho hiện nay năm 1899.
| Lễ cúng ở hậu sở đình Nhơn Hòa tưởng nhớ tiền nhân, trên bàn thờ là bài vị Cậu Hai Miên - Ảnh: Hồ Tường |
Cha mẹ của Huỳnh Công Miên có tổng cộng năm người con: Cậu Hai Miên vốn là con trai thứ hai, con trai út là Huỳnh Công Viễn, cùng với ba người con gái giữa, trong đó hai người con gái đã trở thành nữ tu đạo Thiên Chúa và một người chết lúc còn nhỏ.
Vợ của Cậu Hai Miên là bà Lê Thị Túy, em gái cai tổng Lê Quang Chiểu (người gốc ở Phong Điền, Cần Thơ), một người nổi tiếng tiểu thư khuê các, văn hay chữ tốt, có nhà ở vùng Tân Hòa xã, nay là khu vực phường Cầu Kho và phường Nguyễn Cư Trinh (quận 1, TP.HCM).
Cha của Huỳnh Công Miên là Huỳnh Công Tấn - đã được người Pháp ban cho chức Lãnh Binh sau khi đưa quân Pháp đàn áp một số các phong trào khởi nghĩa ở miền Nam chống lại sự xâm lược của Pháp vào Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ 19.
| Cậu Hai Miên thuở nhỏ cùng cha mẹ và người hầu (phía sau) - Ảnh tư liệu |
Cây đắng sanh trái ngọt: bỏ việc bất nghĩa đàn áp nghĩa quân
Nhiều người nói rằng cha con Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn và Cậu Hai Huỳnh Công Miên là trường hợp khác thường: cây đắng sanh trái ngọt.
Nếu người cha là Lãnh Binh Tấn bị người đời cười chê là: “Chó săn có lũ thằng Tường (Tôn Thọ Tường) - Thằng Lộc (Trần Bá Lộc), thằng Tấn (Huỳnh Công Tấn), thằng Phương (Đỗ Hữu Phương) một đoàn”, thì Cậu Hai Miên lại được dân gian ca ngợi là: “Nam kỳ có cậu Hai Miên - Con quan lớn Tấn ở miền Gò Công - Cậu Hai là bực anh hùng - Ăn chơi đúng bực anh hùng liệt oanh! - Nam kỳ lục tỉnh nổi danh”…
Năm 17 tuổi, Huỳnh Công Miên cùng với Trần Bá Hựu (em ruột Trần Bá Lộc), Lê Công Phụng, con nuôi của Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn, được qua Pháp du học Trường La Seyne gần Toulouse.
Sau 4 năm, cả ba không đỗ đạt bằng cấp gì cả, nhưng nói trôi chảy tiếng Pháp, về nước được Pháp cho làm thông ngôn, sau thăng ông Phán, tri huyện hàm.
Riêng Huỳnh Công Miên lúc mới về nước, được cử làm việc dưới trướng Tổng đốc Trần Bá Lộc lúc đó được điều ra miền Trung đánh phá phong trào yêu nước của anh hùng Mai Xuân Thưởng.
Trong cuộc hành quân 70 ngày, Trần Bá Lộc đã ra tay giết chết, khủng bố hàng loạt người dân lương thiện đến nỗi người Pháp cũng phải kinh sợ.
Lộc còn lập kế bắt mẹ của lãnh tụ nghĩa quân tra khảo, đe dọa giết để Mai Xuân Thưởng về hàng. Những việc sát hại đồng bào của Trần Bá Lộc đã khiến Huỳnh Công Miên phẫn uất, chán nản, thấy mình không thể theo Lộc làm những điều tàn ác được nữa, nên đã bỏ quan chức mà trở về làm thường dân.
"Giữa đàng thấy chuyện bất bằng chẳng tha"
Từ đó, Huỳnh Công Miên trở thành một công tử ăn chơi khét tiếng miền Nam. Dân chúng gọi bằng “Cậu Hai Miên”.
Cậu Hai sống theo kiểu giang hồ hảo hán, lưu linh miễn tử khắp Nam kỳ, sống hoang đàng, tiêu tiền như nước và thường làm những việc nghĩa hiệp “giữa đàng thấy chuyện bất bằng chẳng tha”.
Hành động “từ bỏ chức tước, quyền hành cao sang, tránh xa những công việc tàn ác, sát hại đồng bào” của Cậu Hai Miên đánh đúng tâm lý của người dân Việt Nam thời bấy giờ, nhất là tầng lớp dân lao động, đó là tâm lý “trọng nghĩa, khinh tài” mà Trịnh Hoài Đức đã ghi nhận về những người dân cần cù của Phiên An (sau là Sài Gòn, Gia Định, nay là TP.HCM) trong Gia Định Thành Thông Chí từ đầu thế kỷ 19.
Đó có thể xem là lý do đầu tiên mà người dân Nam kỳ, trong đó có dân lao động ở khu vực Cầu Muối, đã nể trọng Cậu Hai Miên, để từ đó thờ Cậu tại đình Cầu Muối sau khi Cậu thất lộc ngay trên địa bàn cư trú của mình.
Cuộc đời của Cậu Hai Miên đã để lại những dấu ấn tốt đẹp trong tình cảm của người dân lao động.
Trước hết là hành vi “tống tiền” của Cậu Hai Miên với quan tham biện tỉnh Mỹ Tho (người Pháp, chức này tương đương chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh ngày nay) với kết quả: vị quan Tây này nể uy quyền của quan lớn Tấn (cha Cậu Hai Miên) đã phải trả lời: “Hết tiền, cậu cứ xuống kho lấy xài” (vè cậu Hai Miên).
Chưa hết, nhiều người cũng nhắc chuyện Cậu Hai Miên ra tay đánh cặp rằn (giám thị) Tây vì ức hiếp dân phu đào ao Trường Đua ở Gò Công…
Chẳng những coi thường quan Tây, Cậu Hai Miên còn ra tay trị tới những tham quan ô lại người Việt thời bấy giờ, trong đó có một hương quản (tương đương trưởng công an xã, phường, thị trấn ngày nay) vốn từng cầm roi cá đuối đánh đập dân làng.
Tay này đã bị Cậu Hai Miên trừng trị đến nỗi phải chạy đi xứ khác: “Hương quản đã trốn bỏ làng, Còn ai đâu nữa nghinh ngang ỷ quyền”.
Cậu Hai Miên không dừng lại ở đó mà còn trừng trị bọn cường hào ác bá mới nổi lên tại Bạc Liêu ở xứ Nam kỳ thuộc địa: anh em chủ Thời, chủ Vận...
Ông chủ Thời có một cô con gái tên là cô Hai Sáng. Dân chúng khắp trong vùng này không ai dám nói đến chữ Sáng như “buổi sáng”; hồi “sáng mai”, mà phải nói lại “buổi sớm”; “sớm mơi”... cũng đủ biết thế lực hai ông ấy ra sao. Có một lần đoàn ghe hầu mấy chiếc của cậu Hai Miên ngao du tới xứ Bạc Liêu.
Nghe nói về chủ Thời, chủ Vận, cô Hai Sáng, Cậu Hai Miên tức giận vô cùng. Cậu đã cho ghe ghé lại. Về chuyện này, ông Nguyễn Công Chẩn (phó ban quản trị đình Cầu Muối) lúc còn sống từng kể rằng Cậu Hai Miên đã ra lệnh lột hết quần áo cô Hai Sáng, trói lại và kéo lên cột buồm. Ông chủ Thời vội vã xuống nước nhỏ, năn nỉ, thương lượng với Cậu Hai Miên xin chuộc cô Hai Sáng bằng một bao cà ròn giấy bạc.
Cậu Hai Miên bằng lòng, mở trói cho cô Hai Sáng, rồi gia nhân ôm bao cà ròn đầy nhóc giấy bạc xuống ghe, chèo đi. Từ đó, ông chủ Thời, chủ Vận bớt hống hách với dân làng…
Đời nào cũng vậy, hễ ai ra tay trừng trị bọn tham quan ô lại, cường hào ác bá đều được dân lành tin yêu, kính mến.
Đó là lý do thứ hai khiến cho dân Cầu Muối đã thờ Cậu Hai Miên từ bao đời nay.
Cậu Hai Miên còn hay giúp đỡ người thất cơ, lỡ vận và kẻ dưới tay. Mở đầu “Thơ Cậu Hai Miên” là câu chuyện Bảy Danh, Tám Hổ, Ba Ngà đến nhà than phiền với Cậu Hai Miên là mới thua ba ngàn đồng tiền chơi me ở nhà Chệt Lù (tên thường gọi của một người Hoa chơi cờ bạc), nhờ Cậu gỡ gạc giùm.
Cậu Hai Miên liền cho người gọi Chệt Lù đến để “gầy sòng”, kết quả Cậu đã thắng bạc hơn bốn ngàn hai và trả lại tiền cho ba tên đã thua.
Nếu chỉ có vậy thì chưa chắc giới bình dân đã khoái Cậu Hai Miên, mà Cậu còn làm nhiều việc nghĩa hiệp. Đó là lúc cậu ra tay đánh tên vô lại Tám Hổ để bảo vệ người phụ nữ bị tên này ức hiếp. Tuy nhiên, Cậu Hai Miên còn chơi rất giang hồ mã thượng, đó là khi Tám Hổ bị “nốc ao” xin tha tội thì “Cậu hai thấy vậy tha ngay”!
Sống ở đời, làm việc nghĩa hiệp luôn được mọi người ca ngợi.
| Cầu Kho năm 1955 - Ảnh tư liệu |
Tung hoành bốn phương, chết ngay cửa nhà
Nhà của vợ chồng Cậu Hai Miên ở vùng Cầu Kho (trước là xã Tân Hòa, nay là khu vực phường Cầu Kho và phường Nguyễn Cư Trinh, thuộc quận 1, TP.HCM).
Lang bạt kỳ hồ rồi Cậu Hai cũng phải về với mái ấm gia đình.
Sau lần chọc trời khuấy nước ở Bạc Liêu, ngày mùng 6 tháng chạp năm Kỷ Hợi (1899), Cậu Hai Miên trực chỉ vùng “khói tỏa Cầu Kho thăm vợ hiền” thì đã bị cô Hai Sáng rửa hận.
Ông nội của nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường (Cai Lậy, Tiền Giang) lúc sinh tiền kể lại rằng: lần đó, cô Hai Sáng thuê hơn 40 tay “đâm thuê chém mướn” cầm dao xắt chuối bao vây Cậu Hai Miên.
Mặc dù rất giỏi võ, nhưng Cậu Hai không đương cự nổi, lâm cảnh “mãnh hổ nan địch quần hồ”, đã qua đời, hưởng dương 38 tuổi. Đây là tuổi qua đời yểu mạng, mà người xưa cho là chưa tới số!
Sống không khuất phục trước cường quyền, sẵn sàng ra tay diệt trừ cường hào ác bá, bênh vực kẻ yếu, rộng lượng với người dưới ngựa; qua đời tuổi trung niên, cho nên người dân lao động vùng Cầu Muối đã tôn kính Cậu Hai Miên ngay trong ngôi đình của làng mình đang sinh sống.
Họ tin tâm linh rằng Cậu Hai “sống khôn, thác thiêng”, phù hộ cho nhân dân lao động trong vùng bớt được cuộc sống quá nhọc nhằn…
Dân Cầu Muối thờ "đại ca" Hai Miên
TTO - Đình làng Nam bộ cũng như Sài Gòn vốn được bà con trong làng góp công, của xây dựng để thờ vị thần Thành Hoàng phù hộ cho làng. Có một đình làng giữa đất Sài Gòn xưa thờ một "đại ca".
| Đình Nhơn Hòa - Ảnh: HỒ TƯỜNG |
Trong khoảng 300 ngôi đình hiện tồn của khu vực TP.HCM hiện nay, số đình làng nằm lọt trong khu vực nội thành còn lại những nét cổ xưa rất hiếm hoi. Trong đó có đình Nhơn Hòa.
Đình Nhơn Hòa hiện tọa lạc tại số 27 Cô Giang, thuộc phường Cầu Ông Lãnh, quận 1, TP.HCM. Đình Nhơn Hòa nằm đối diện với chợ Cầu Muối cũ nên còn được gọi là đình Cầu Muối.
Kiến trúc của đình Nhơn Hòa hiện nay bao gồm bốn đơn nguyên chính: một là chánh điện thờ thần Thành Hoàng và một số vị thần, thánh khác; hai là miếu Bà thờ năm vị nữ thần là Ngũ Hành Thánh Nương; ba là nhà túc hay hậu sở thờ các vị: Tiên Sư, Tiền Hiền, Hậu Hiền, Tiền Vãng, Hậu Vãng; bốn là võ ca - một ngôi nhà dựng trước chánh điện dùng để tổ chức các suất hát cúng thần Thành Hoàng hằng năm.
Từ năm 1937, võ ca của đình Nhơn Hòa đã được trùng tu để trở thành rạp hát nghệ thuật cải lương hồ quảng trong một thời gian khá dài. Do vậy, trong nhà túc của đình Nhơn Hòa còn có thêm nơi thờ Tổ Sư của nghệ thuật sân khấu nằm ngang hàng với nơi thờ Tiên Sư.
| Bài vị Cậu Hai Miên thờ trong đình Nhơn Hòa - Ảnh: HỒ TƯỜNG |
Đến viếng nhà túc của đình Nhơn Hòa ngày nay, mọi người không thể không ngạc nhiên khi thấy duy nhất một bài vị được thờ trang trọng cùng với di ảnh của các vị Tiền Vãng, Hậu Vãng ở ngay chính giữa nhà túc, bên dưới trang thờ các bậc: Tiên Sư, Tổ Sư, Tiền Hiền, Hậu Hiền.
Bài vị bằng gỗ, cao khoảng 30cm, hiện đang được phủ lớp sơn đỏ, trên đầu và hai bên trái phải bài vị là phần chạm trổ hình ảnh ba con rồng (một linh vật trong tứ linh: long, lân, quy, phụng) nói lên sự linh thiêng, tôn kính của đối tượng được thờ.
Trên mặt đứng của bài vị duy nhất hiện còn được lưu giữ tại nhà túc đình Nhơn Hòa chạm nổi ba dòng chữ Nho.
Dòng chữ ở giữa, to hơn hai dòng chữ hai bên trái phải, ghi: “Huỳnh Công Miên tam thập bát tuế đệ nhị hạng chi vị”, tạm dịch là: “Bài vị của cậu hai Huỳnh Công Miên mất năm ba mươi tám tuổi”.
Dòng chữ Nho bên trái trên bài vị ghi: “Kỷ Hợi niên, thập nhị nguyệt, sơ lục nhật”, tạm dịch là: “Ngày sáu, tháng mười hai, năm Kỷ Hợi”.
Dòng chữ Nho bên phải trên bài vị ghi: “Nguyên cư tại Gò Công xứ, tử ký tại Tân Hòa xã”, tạm dịch là: “Trước sống tại xứ Gò Công, chết gửi thân tại xã Tân Hòa”.
Như vậy, nội dung của bài vị đang lưu giữ tại đình Nhơn Hòa chính là bài vị của Cậu Hai Huỳnh Công Miên (thường gọi tắt là Cậu Hai Miên), đã qua đời năm 38 tuổi; ngày mất là 6 tháng 12 năm Kỷ Hợi âm lịch (tức năm 1899).
Cậu Hai nguyên sống tại xứ Gò Công, nhưng đã mất tại xã Tân Hòa, tức khu vực phường Cầu Kho, phường Nguyễn Cư Trinh, thuộc quận 1 (TP.HCM) ngày nay.
Trên đường Nguyễn Văn Cừ, thuộc địa bàn phường Nguyễn Cư Trinh vẫn còn một cơ sở thờ phụng mang tên đình Tân Hòa, nghĩa là đây vốn là ngôi đình của xã Tân Hòa ngày trước.
Qua những dữ liệu ghi trên bài vị ở nhà túc đình Nhơn Hòa có thể xác định đây chính là bài vị của Cậu Hai Miên, một nhân vật nổi tiếng của Nam Kỳ lục tỉnh những năm cuối thế kỷ XIX vốn là con Huỳnh Công Tấn - kẻ góp phần đắc lực với Pháp sát hại Bình Tây Nguyên soái Trương Định.
Nhân vật Hai Miên có nhiều tranh luận khi từng dưới trướng Tổng đốc Trần Bá Lộc, đàn áp cuộc khởi nghĩa chống Pháp của Mai Xuân Thưởng ở vùng Bình Thuận, Khánh Hòa cuối thế kỷ 19.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, dân gian truyền tụng đó là người giỏi võ nghệ, phóng túng nên nghỉ cộng tác với Pháp để sống một cuộc đời ngang tàng, phóng túng. Đồn đại trong dân là người bênh vực người cô thế trước nhưng tay cường hào ác bá, cặp rằn Tây... nhưng cũng mê cờ bạc, đá gà...
Cậu Hai Miên có tên đầy đủ là Huỳnh Công Miên (không phải Miêng), mất ngày mùng 6 tháng chạp năm Kỷ Hợi, tức năm 1899, lúc 38 tuổi. Tuổi tác ghi trên bài vị là tuổi ta, tức lớn hơn tuổi tính theo dương lịch một năm vì người ta tính luôn thời gian gần một năm nằm trong bụng mẹ.
Như vậy, Cậu Hai Miên chính xác là sinh năm 1862. Điều này để minh định lại những gì đã công bố từ trước tới nay là: “Cậu Hai Miêng sinh năm 1857, mất năm 1895, lúc 38 tuổi” là không chính xác, bởi những dữ liệu ghi trên bài vị xưa nay phải thật chính xác thì khi cúng giỗ linh hồn người quá cố mới về thụ hưởng được.
Tóm lại, nhân vật nổi tiếng ở Nam kỳ một thời, được dân gian đặt vè (vè cậu Hai Miêng - vốn bị thực dân Pháp thời đó cấm phổ biến cùng với vè Sáu Trọng, Thông Chánh) là Cậu Hai Miên đã và đang được dân Cầu Muối thờ tại đình Nhơn Hòa từ bao nhiêu năm nay.
Những dữ liệu ghi trên bài vị của Cậu Hai Miên có lẽ đã góp phần làm sáng tỏ nhiều điều mà trước giờ nhiều tài liệu đã ghi nhận chưa chính xác.
Tổng thể kiến trúc thờ phụng của đình làng ở Nam bộ luôn chia làm hai khu vực:
- Chánh điện là nơi thờ phụng thần Thành Hoàng và các vị thần, thánh dân gian khác;
- Nhà túc (hay còn gọi là hậu sở) là nơi thờ phụng những người có công với dân, với làng như những vị có công dạy dỗ cho dân làng về chữ nghĩa, nghề nghiệp gọi là Tiên Sư; những vị có công khai hoang lập ấp được gọi là Tiền Hiền, những vị có công xây dựng phát triển các công trình công ích của làng (lập chợ, đắp đường, xây cầu…) được gọi là Hậu Hiền.
Những người có công xây dựng, sửa chữa đình làng gọi là Tiền Vãng; những người có công trông coi, giữ gìn đình gọi là Hậu Vãng.
Việc thờ phụng ở đình làng được thể hiện bằng những bài vị bằng gỗ, chạm trổ khá đẹp mắt những hoa văn cổ truyền.
Bài vị của các vị thần gọi là thần vị, chạm trổ tinh vi hơn, cầu kỳ hơn, cao khoảng 50cm, để phân biệt với bài vị của những người có công với dân, với làng, chạm trổ đơn giản hơn, cao khoảng 30cm.
Trên mặt đứng nằm ở giữa thần vị, người ta chạm mỹ tự vua ban cho các vị thần, còn trên các bài vị ghi tục danh, quê quán, trú quán, ngày tháng năm sinh và ngày tháng năm mất của người được thờ phụng.
Gần đây, khi nghệ thuật chụp ảnh đã trở nên phổ biến, nhiều đình làng đã không sử dụng những bài vị cổ xưa nữa mà đã thay bằng tất cả di ảnh của các bậc có công với dân, với làng.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét