Tượng thờ Sỹ Nhiếp trong thành cổ Luy Lâu.
(PLO) - Di tích thành cổ Luy Lâu từ rất lâu đã trở thành một nỗi xót xa, ám ảnh của giới nghiên cứu lịch sử và khảo cổ nước nhà cũng như các nhóm nghiên cứu khảo cổ quốc tế. Bởi đây là chiến tích văn hóa lừng lẫy một thời, chứng kiến một giai đoạn phát triển rực rỡ của lịch sử nước Việt… nhưng bây giờ thành cổ Luy Lâu nằm im lìm, hoang tàn ngay bên tỉnh lộ 283...
Thành cổ bề thế nhất thời Bắc thuộc
Thành cổ Luy Lâu hiện nay thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Qua nhiều lần khảo cổ, các nhà khoa học phát hiện nhiều hiện vật có giá trị và đã đưa ra đánh giá: Trước đây, chúng ta vẫn coi Luy Lâu là sở lị của chế độ phong kiến Bắc thuộc, nhưng thực chất đây còn là một đô thị cổ diễn ra nhiều hoạt động phong phú của người Việt.
Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy Luy Lâu là khu di tích khảo cổ học thời Bắc thuộc có quy mô rộng lớn nhất với số lượng di tích phong phú nhất ở nước ta hiện nay. Luy Lâu là ngôi thành đất, cấu trúc dạng chữ nhật, nằm gọn trong làng Lũng Khê, với quy mô khá lớn, kích thước của các lũy thành đo được như sau: lũy thành phía tây 328m, lũy thành phía đông 320m, lũy thành phía bắc 680m, lũy thành phía nam 520m.
Thành mở cửa chính ở giữa lũy phía tây, nhìn ra sông Dâu. Hai bên có cửa dựng lầu gác gọi là Vọng Giang lâu. Trên mặt có 4 góc thành là đồn canh, còn gọi là tứ trấn thành quan. Bao ngoài thành là hệ thống hào. Con sông Dâu trở thành hào thiên nhiên ở mặt tây, còn 3 mặt là hào được tạo bởi đào đất đắp lũy thành, nay còn lại là những dãy ao rộng tới 40-50m chạy thành dải.
Bao ngoài thành lũy là hệ thống hào nối thông với nhau và nhận nước từ dòng sông Dâu vừa tạo chướng ngại vật vừa là hệ thống giao thông ra vào thành. Phía ngoài hào là những lũy tre dày đặc giúp cho việc phòng vệ lũy thành khá hiểm trở, vững chắc.
Trải qua gần 20 thế kỷ với bao biến cố, thăng trầm, các lũy thành bị san bạt đi nhiều. Tuy nhiên, trải trên diện tích rộng lớn cả khu vực nội và ngoại, thành cổ Luy Lâu vẫn còn những dấu tích cư trú, kiến trúc như: đường viền thành cao khoảng 1-3m so với mặt ruộng; dãy ao cổ nối với nhau chạy thành dải liên tiếp là vết tích của việc đào đất đắp hào cùng vô số hiện vật, di vật gạch ngói các loại, đồ dùng sinh hoạt, công cụ sản xuất…
Tổng tập “Nghìn năm văn hiến Thăng Long” ghi: Các nguồn thư tịch, tài liệu ở Luy Lâu, nhất là “Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh” lưu tại chùa Dâu cho thấy, vào thế kỷ II-III sau CN, Luy Lâu là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của nước ta. Hoạt động Phật giáo ở đây rất nhộn nhịp và tập trung. Tăng viện, chùa tháp được xây cất rất quy mô, tàng chứa hàng trăm bộ kinh. Hàng trăm tăng sỹ Ấn Độ, Trung Quốc, Trung Á… đã tới Luy Lâu truyền đạo, nghiên cứu, biên dịch kinh Phật, đào tạo tăng đồ…
Trước sự trù phú của địa bàn và cuộc sống, phong kiến Trung Quốc đã nhận thấy Luy Lâu giữ vị trí ưu thế và thuận lợi về nhiều mặt để đặt trị sở thống trị, đồng thời chiếm giữ, khống chế con đường hàng hải quốc tế để tiến xuống chinh phục các nước phương Nam. Từ một trung tâm kinh tế văn hóa của người Việt, Luy Lâu đã nhanh chóng trở thành trị sở thống trị của phong kiến nhà Hán ở Giao Chỉ.
Trong các thời kỳ phong kiến Trung Quốc cai trị, rực rỡ nhất phải kể đến là thời Sỹ Nhiếp làm Thái thú. Sỹ Nhiếp cho xây dựng một hệ thống chùa dày đặc, lấy chùa Dâu làm trung tâm, được xem là người đầu tiên truyền bá kinh Phật tại trung tâm Luy Lâu, được tôn vinh là Nam Giao học tổ.
Cũng trong thời kỳ của Sỹ Nhiếp, nước Việt đã có một giai đoạn phát triển văn hóa, kinh tế bậc nhất trong giai đoạn ngàn năm Bắc thuộc. Tâm điểm của thành Luy Lâu ngày nay cũng là dấu ấn ít ỏi còn lại của thành cổ chính là đền Lũng Khê thờ Sỹ Nhiếp với chiếc cầu đá khoảng 1.800 năm tuổi.
Nam Giao học tổ Sỹ Nhiếp là ai?
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Sỹ Nhiếp là người Trung Quốc, trong cuộc loạn lạc được vua Hán cho làm Thái thú Giao Chỉ. Vì có công với Hán học ở nước ta, được giới Nho học suy tôn, gọi là Sỹ Vương, rồi sử cũ chép riêng một kỷ, gọi là kỷ Sỹ Nhiếp”.
Sỹ Nhiếp gốc người nước Lỗ, tổ tiên đã sang ta được 7 đời nên Sỹ Nhiếp đã được Việt hoá. Chính văn bia ở đền thờ Sỹ Nhiếp trong thành Luy Lâu đã xác nhận: “Sỹ Nhiếp là người nước Lỗ, Trung Quốc, là vị chân Nho, làm Thứ sử Giao châu, hành đức giữ gìn Phật tượng ở Luy Lâu thành”.
“Đại Việt sử kí toàn thư” nhận xét: Nước ta được thông thi thư, tập lễ nhạc, là một nước văn hiến do bắt đầu từ Sỹ Vương. Sách “Luy Lâu lịch sử và văn hoá” thì khẳng định: Sỹ Nhiếp là người đem văn hoá Trung Quốc truyền vào Luy Lâu một cách mạnh mẽ, đàng hoàng và hệ thống; nhưng cũng chính là người có công tu tạo, tôn vinh, quy chuẩn phong tục bản địa.
Nhiều tài liệu, di tích cùng với văn bia, địa danh, truyền thuyết, thành lũy… còn tồn tại ở Luy Lâu đã cho biết: Trị sở Luy Lâu được xây cất quy mô từ thời Thái thú Sỹ Nhiếp. Khi còn sống, Sỹ Nhiếp đã cho xây thành, dựng lầu gác (Lầu vọng giang, nhà dạy học, dinh thất…) và lấy nơi đây để dạy học, sau dân nhớ ơn ấy mà lập đền thờ…
Sỹ Nhiếp làm Thái thú Giao châu dưới 2 triều Đông Hán và Ngô trong thời gian 40 năm và hai lần được phong tước Long Bộ Đình Hầu (triều Đông Hán) và Long Biên Hầu (triều Ngô). Sỹ Nhiếp cho xây dựng Luy Lâu thành trị sở cai trị và trung tâm kinh tế, văn hóa ở Giao châu.
Các nguồn tài liệu về Luy Lâu xác nhận Sỹ Nhiếp là người cho dựng chùa và tạc tượng “tứ pháp”, là người mở mang Hội Dâu và cũng chính là người ra khai hội hàng năm vào ngày 8 tháng Tư. Có thể thấy Sỹ Nhiếp là người đã được Việt hóa sâu sắc, chính vì vậy trong việc truyền bá văn hóa văn minh vào nước ta, Sỹ Nhiếp đã có sự thông hiểu và kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống văn hóa bản địa, do đó đem lại những hiệu quả to lớn và tích cực.
Điều đó giải thích vì sao Sỹ Nhiếp là vị Thái thú duy nhất được nhân dân Luy Lâu ngưỡng vọng nhớ ơn và suy tôn là Sỹ Vương Tiên, Thánh Nam Giao, Nam Giao học tổ. Giai đoạn Thái thú Sỹ Nhiếp cai trị (187-226), lợi dụng nhà Hán suy yếu, ông đã xây dựng Luy Lâu sầm uất như một kinh đô của nước độc lập.
Thời kì này cả nước Hán loạn lạc liên miên nhưng vùng đất của Sỹ Nhiếp cai trị vẫn thái bình thịnh trị. Đại Việt sử kí toàn thư xếp thời này là một triều đại riêng của nước ta, gọi là kỉ Sỹ Vương.
Dấu tích rêu phong đang phủ bóng thành cổ Luy Lâu
Một Lầu voi ghi lại trận chiến của Hai Bà Trưng đã được xây dựng xong.
(PLO) - Theo chân những người đang dùng tâm sức của mình để giữ gìn, truyền bá những giá trị lịch sử của thành cổ Luy Lâu cho đời sau, chúng tôi mới nhận ra rằng hình như ngay cả với những người con thành cổ, với chung một tư liệu thông tin nhưng những tranh cãi về thành cổ vẫn còn theo họ, kể từ ngày họ nhận ra mảnh đất mình đang sinh sống đã có một thời kỳ phát triển rực rỡ như thế nào…
Những dấu ấn lịch sử ùa về…
Ông Nguyễn Văn Thỉnh, Trưởng ban Khánh tiết đền thờ Sỹ Nhiếp giải thích cụ thể: Thành cổ Luy Lâu có từ rất lâu, trước khi cụ Sỹ Nhiếp được giao nhiệm vụ cai quản. Năm 207 trước Công nguyên, Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc, đổi tên nước thành quận Giao Chỉ, đã đặt Đô uý trị ở Dâu và xây thành Luy Lâu.
Năm 111 trước Công nguyên, nhà Hán đánh bại nước Nam Việt thì Dâu vừa là quận trị quận Giao Chỉ vừa là châu trị châu Giao. Mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đã kéo quân về đánh thành Luy Lâu, Thái thú Tô Định phải chạy trốn về nước.
Và thời kỳ phát triển rực rỡ dưới sự cai trị của cụ Sỹ Nhiếp là những mốc son đánh dấu sự thăng trầm của Thành cổ.
Rồi ông Thỉnh chỉ về phía trước cây cầu đá cho biết, khoảng trống phía trước cây cầu chính là vị trí ngày xưa Hai Bà Trưng đã tập kết, sau khi kéo đoàn quân chiến thắng từ Mê Linh đổ bộ về thành cổ. Giọng ngậm ngùi, ông bảo ngay bên kia cầu, có lẽ là nơi ngày xưa Thái thú Tô Định đã lập giàn hỏa thiêu Thi Sách, chồng của Trưng Trắc.
Nhắc đến đây, câu chuyện lịch sử về bà Trưng Trắc chấp nhận hy sinh người chồng đầu gối tay ấp của mình để chiếm đánh thành Luy Lâu chợt ùa về…
Sử sách ghi lại rằng, khi Hai Bà Trưng đánh vào thành, Tô Định đang làm Thái thú ở Luy Lâu đã bắt được Thi Sách. Tô Định ra tối hậu thư “Nếu không tấn công thành thì giữ lại được mạng sống của Thi Sách, nếu đánh vào thành thì sẽ thiêu sống Thi Sách ngay” nhưng bà Trưng Trắc quyết định “nợ nước phải trả, thù nhà tính sau”, vẫn quyết tâm đáng trống tấn công vào thành…
Câu chuyện giữa chúng tôi dường như chùng xuống khi nhắc lại giai đoạn lịch sử vừa đau thương vừa hào hùng của Hai Bà Trưng.
Như để phá tan sự im lặng, ông Thỉnh cho biết, gần đây nhân dân 3 thôn muốn xây lại hai lầu voi để tưởng nhớ công ơn của Hai Bà Trưng nhưng chính quyền không cho phép, nhân dân mới xây được một lầu voi hoàn chỉnh, lầu voi kia không biết đến bao giờ mới có thể tiếp tục.
Ông Thỉnh ngậm ngùi bảo: “Dấu tích thành xưa chỉ còn cây cầu và đền thờ, con cháu biết nhìn vào đâu để hiểu lịch sử về thành cổ? Tái tạo lại hình tượng các trận chiến xảy ra trong thành chính là một cách khơi gợi lịch sử, để giá trị văn hóa Luy Lâu còn có thể tiếp tục với thời gian”.
Chúng tôi hiểu những gì mà ông Thỉnh đang giữ ở trong lòng, có lẽ bởi hiểu được những giá trị của thành cổ, ông mới xót xa đến thế…
| Ông Thỉnh, ông Chịch chuyện trò với phóng viên. |
Làm sao để giữ gìn lịch sử?
Dẫn chúng tôi đi một vòng, bắt đầu từ cây cầu đá bên đền thờ Sỹ Nhiếp, ông Thỉnh chỉ dẫn các di tích cụ thể ở thành cổ: Đây là đường cái hội để rước kiệu vào ngày hội, kia là ao hội; đường cái hội bắt đầu từ cửa đền Sĩ Nhiếp, rước qua ao hội, đi thẳng vài chục mét, đến cổng thành, ngay trước cửa Vọng Giang lâu.
Cách ao hội không xa là ao chạ, là ao của làng, cạnh đấy là hình chiếc bút nghiên và một ao chạ con, được coi như lọ mực để tượng trưng cho sự nghiệp dạy dỗ, truyền bá chữ Hán cho con dân nước Việt của Sĩ Vương Tiên.
Dẫn chúng tôi đi tìm lại những dấu tích xưa của Vọng Giang lâu, ông Thỉnh và ông Nguyễn Văn Lâm, một người con tâm huyết với thành cổ, còn nổ ra một trận tranh luận nảy lửa về vị trí Vọng Giang lâu khi xưa.
Ông Lâm thì cho rằng, Vọng Giang lâu nằm chếch về phía chùa Phi Tướng, còn ông Thỉnh thì dứt khoát khẳng định Vọng Giang lâu theo đúng hướng thẳng từ đền vẽ thẳng ra vì cụ Sỹ Nhiếp xây dựng những vị trí này đều có những ý tưởng chiến lược cụ thể.
Ông Thỉnh cho biết thêm: 5 địa điểm bao gồm tòa điện thờ, sân, hồ (bên dưới cầu đá), 2 cầu voi và lầu cổng bắt buộc phải nằm trên một đường thẳng. Chiếu thẳng ra thành ngoại, đấy chính là vị trí của Vọng Giang lâu. Vọng Giang Lâu chính là nơi cụ Sĩ Nhiếp ngồi để nhìn xuống sông Dâu, được làm 8 mái, là vị trí quan trọng để quan sát khu vực rộng lớn xung quanh và lên những chiến lược bảo vệ thành.
Còn một ý đồ khác mà người dân cho rằng cụ Sỹ Nhiếp rất có lý khi quyết định những vị trí trọng yếu phải nằm trên một đường thẳng như vậy. Chính là ý nghĩa ngay cả khi mất đi rồi, cụ Sĩ Nhiếp vẫn còn có thể chăm lo và quan sát cho đời sống dân gian.
Ngoài ra, xung quanh thành là 4 miếu tứ trấn, gọi là tứ trấn Thành quang, giờ chỉ còn là những gồ đất nhô lên cao hơn mặt đất bình thường, xung quanh có các bờ thành, hình thang. Chếch bên phải Vọng Giang lâu là tứ trấn thành Tây Nam, chỉ là hình ụ đất nổi lên trên, cao hơn mặt đất không còn bao nhiêu.
Ông Nguyễn Văn Chịch, thủ từ đền thờ Sỹ Nhiếp cho biết, trước đây hội khảo cổ tiến hành khai quật mới biết đền đã trải qua bao nhiêu lần tu sửa và chỉ tìm được 2 phần móng của tòa đệ Nhất, đệ Nhị. Những dấu tích thu nhận được đã cho thấy năm 226 mới dựng đền thờ nhưng đến đời nhà Nguyễn đã được tu sửa (đầu thế kỷ 19).
Ông Chịch xót xa khi thấy ngôi đền thờ một vị có công với văn hóa dân tộc lại luôn trong khung cảnh hoang tàn, cánh cửa thì xập xệ… Ông bảo: “Liệu có phải do nguồn gốc Trung Quốc của ông ấy mà người dân thờ ơ không”?
Dẫn chúng tôi đi một vòng quanh vùng lõi thành cổ, ông Nguyễn Văn Thỉnh trầm tư bảo: “Bây giờ cũng khó có thể lấy lại được đầy đủ diện tích thành cổ khi xưa. Chúng tôi chỉ có thể cùng bàn nhau, nhắc nhở nhau chung tay gìn giữ những vùng đất đã được cắm mốc chỉ giới “bất khả xâm phạm”.
Bây giờ, sau khi xuất hiện nhiều đoàn khảo cổ đến với Luy Lâu, học sinh cấp 2, cấp 3 thi thoảng lại tranh thủ rẽ vào sau giờ học ở trường, líu lo với ông Chịch về thành cổ, về trận tấn công thắng lợi của Hai Bà Trưng… Thảng hoặc chúng mới nhắc đến Sĩ Nhiếp… Đó chính là điều làm ông Chịch, ông Thỉnh đau lòng…
Bởi hai ông lo nếu ngành văn hóa, chính quyền xã, huyện mà không có hành động gì thiết thực, chỉ 2-3 đời nữa thôi, có lẽ chẳng còn ai nhớ đến Sỹ Vương Tiên với thời kỳ cai quản thành cổ Luy Lâu phát triển hưng thịnh nhất…/.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét