Thứ Tư, 9 tháng 3, 2016

Ai là bà hoàng cao quý nhất triều Nguyễn?

(Kiến Thức) - Thái hậu Từ Dũ là bà Hoàng Thái hậu nổi tiếng của triều Nguyễn. Bà là người đức hạnh, có học thức, giỏi nuôi dạy con cái, yêu quý dân chúng... 

Thái hậu Từ Dũ là bà Hoàng Thái hậu nổi tiếng của triều Nguyễn. Bà là người đức hạnh, có học thức, giỏi nuôi dạy con cái, yêu quý dân chúng... Trong 55 năm tại vị, từ khi trở thành Hoàng Thái hậu dưới triều Tự Đức cho đến lúc mất dưới thời Thành Thái, bà luôn được coi là một bà hoàng cao quý nhất của triều đình nhà Nguyễn.
Chiếc cúc áo có hình con phượng
Thái hậu Từ Dũ là mẹ vua Tự Đức (1848 - 1883), vợ vua Thiệu Trị (1841 - 1847). Bà có tên thật là Phạm Thị Hằng, con gái Thượng thư bộ Lễ Phạm Đăng Hưng. Bà Phạm Thị Hằng sinh ngày 9/5 năm Canh Ngọ, niên hiệu Gia Long 9, tức ngày 10/6/1810, người huyện Tân Hòa (nay là Gò Công) tỉnh Gia Định. Thuở nhỏ là con gái phải theo nếp gia phong, phải chăm lo học nữ công gia chánh, coi sóc việc thêu thùa, nấu nướng. Nhưng do sinh ra trong một gia đình nho giáo bố là công thần nhà nước, mẹ lại là người trọng văn thơ, nên bà Phạm Thị Hằng cũng theo mẹ ham đọc sách, thông hiểu kinh sử, rèn luyện tính hạnh, đạo đức, nho phong.
Năm bà 14 tuổi, do có tiếng tốt nên được vợ vua Gia Long, tức Thuận Thiên Cao Hoàng hậu tuyển vào cung, cho làm vợ lẽ Hoàng trưởng tử Miên Tông. Bấy giờ, cùng làm vợ lẽ Miên Tông còn có người con gái họ Nguyễn là con của Kinh Môn quận công Nguyễn Văn Nhân. Nhưng do chức của người cha lớn hơn nên Nguyễn Thị được xếp vào bậc cao hơn Phạm Thị Hằng. Tuy vậy, do được dạy dỗ chu đáo nên bà Phạm Thị Hằng tỏ rõ người thấm nhuần lễ nghĩa nho gia nên vẫn được mẹ vua và vua thương mến
Có lần vua Minh Mạng sai cho mỗi người một chiếc áo sa cổ có đính hoa vàng. Khi hai người từ tạ thì mẹ vua lại cho mỗi người một cúc áo vàng, chiếc chạm hình con phượng, chiếc chạm cành hoa, đều được gói kín trong hộp, thầm vái trời rằng: "Xin cho người có con trước được chọn chiếc cúc chạm hình phượng". Bà Phạm Thị Hằng vẫn chọn được chiếc cúc áo có chạm hình con phượng. Sau đó, năm 15 tuổi bà Hằng sinh trưởng công chúa Diên Phúc, sau một năm lại sinh thứ trưởng công chúa và ngày 25/8 năm Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Mạng thứ 10 (tức ngày 22/9/1824) bà Phạm Thị Hằng sinh ra Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức sau này).
Ai la ba hoang cao quy nhat trieu Nguyen?
Hoàng Thái Hậu Từ Dũ.  
Ngồi sau tường nghe việc quan
Ngày 11/1/1841, vua Minh Mạng qua đời, đến ngày 11/2/1841, Miên Tông chính thức lên ngôi, đặt niên hiệu Thiệu Trị. Năm này vua Thiệu Trị phong bà Phạm Thị Hằng chức cung tần.
Năm Quý Mão (1843), Hồng Nhậm được phong Phúc Tuy Công, cũng trong năm này, bà Phạm Thị Hằng được phong Thành phi, đứng đầu bậc thứ hai của các vợ vua, về danh nghĩa là người đứng hàng thứ sáu trong số 21 bà vợ vua có chức vị cao.
Tháng 2 năm Bính Ngọ (1846) bà Phạm Thị Hằng lại được phong Quý Phi, thực tế là người vợ lớn nhất của Thiệu Trị, đứng đầu các cung vì vua Thiệu Trị chưa phong ai là Hoàng hậu và Hoàng quý phi.
Theo Đại Nam chính biên liệt truyện thì vua thường ngồi ở điện Khâm Vạn nghe chính sự, sai hậu ở sau tường nghe trăm quan tâu việc, lời vua huấn thị rõ hay không... Khi vua gần mất, mọi việc về sau đều dặn dò ủy thác cho Hậu. Ngày 5/ 11 năm Đinh Mùi (1847) Thiệu Trị qua đời, Ngày 23/11/1847 (ngày mồng 3/10 năm Đinh Mùi) Hồng Nhậm lên ngôi, đặt niên hiệu là Tự Đức cho năm sau là năm Mậu Thân. 

Những câu chuyện để đời của bà hoàng Từ Dũ

Trước sau như vậy, bà Từ Dũ Phạm Thị Hằng đã có một cuộc đời tỏa sáng, nhân đức của bà đã được hậu thế lưu danh.

Từ khi con trai nối ngôi vua cha để ngồi trên ngai vàng trị vì đất nước, lúc nào bà Từ Dũ cũng nhắc nhở Vua Tự Đức phải cân nhắc, soi xét thật kỹ càng khi bổ dụng các quan lại. Bà luôn nhắc với vua rằng: Phải dùng những ông quan thanh liêm, có lòng nhân nghĩa để lương dân bớt khổ. Bà ở trong cung, nhưng nghe ở đâu có ông quan nhũng lạm hà hiếp dân lành là bà hỏi cho kỳ được.
Xuất thân trong một gia đình quyền quý, nên bà đã biết duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình. Từ nhỏ đã được dạy dỗ rất chu đáo nên bà là người thông tường kinh sử, hiểu việc nước, việc đời cũng như việc nuôi nấng dạy dỗ con cháu trong gia đình. Bà thường nhận xét những ưu điểm, khuyết điểm của từng viên quan lại trong triều một cách hết sức công minh.
 Ấn Từ Dũ Thái hoàng Thái hậu chi bảo.
Bà thường hỏi vua Tự Đức nhiều chuyện từ việc quốc gia đại sự đến việc thường ngày trong bàn dân thiên hạ, rồi ban dạy cho con những điều hay lẽ phải. Vì vậy mà vua Tự Đức hết lòng tôn kính mẹ. Tất cả những lời dạy vàng ngọc ấy của bà Từ Dũ đã được Vua Tự Đức cho khắc in lại gọi là Từ Huấn Lục (chép những lời giáo huấn của mẹ hiền).
Ở trong cung, bà Từ Dũ thường dùng địa vị và quyền hạn của mình để ổn định mọi sinh hoạt ở tam cung lục viện. Theo bà, ở trong cung có trên thuận dưới hòa thì Vua mới hết lo và dành hết thời giờ cho xã tắc. Bà vẫn thường nói với các hoàng phi, cung tần rằng càng ở ngôi cao thì càng phải chăm chắm sửa mình, phải cần kiệm liêm chính để kẻ dưới noi gương.
Sử nhà Nguyễn vẫn còn chép lại nhiều câu chuyện về sự cần kiệm của bà Hoàng Thái hậu Từ Dũ mà cho đến ngày nay vẫn còn rất nhiều người nhắc nhớ: Ai cũng biết rằng, bà là người rất được Vua Thiệu Trị sủng ái, được con là Vua Tự Đức hết lòng phụng kính, cuộc sống vật chất nơi vương triều đạt đến tuyệt đỉnh. Thế nhưng, trước sau bà vẫn giữ nghiêm một nếp sống vô cùng giản dị đến lạ lùng.
Khi vào ở tại cung Gia Thọ (sau này là Diên Thọ) người ta đã sắm sửa cho bà theo mức giàu sang tột bậc, nhưng bà nhất định chối từ. Bà nói rằng: Đồ phụng dưỡng cho bổn thân này đều là của trong thiên hạ cung nạp, mình đã không làm đặng sự chi lợi ích cho nhà nước thì thôi, cớ sao giám vọng phi? Rồi bà nhất quyết chỉ dùng những thứ đồ cũ đã có từ trước đó.
Một hôm, Vua Tự Đức đến cung Gia Thọ để thỉnh an mẹ, vua cầm cái đãy đựng kính đeo mắt lên xem, thấy đãy đã cũ mềm, nhiều chỗ đã bị sứt chỉ, tuy đã được may lại rất khéo nhưng vẫn không thể giấu được sự nghèo nàn tội nghiệp. Vua Tự Đức đã đề nghị xin cho đổi cái khác. Bà nói: Kiếng thủy tinh ấy đeo vào chỉ mát con mắt trong chốc lát thôi chớ chẳng hiệu nghiệm chi hơn. Nếu đổi cái đãy mới thì lâu rồi nó cũng sẽ cũ như rứa. Chi bằng cứ để nó mà dùng có tiện hơn không.
Ngày ngày, cung nhân dâng đèn sáp để thắp sáng trong cung Gia Thọ, bà thường dạy cất bớt đi. Mỗi ngày dành một ít, đến lúc dồn được số nhiều, bà lại sai người đem vào dự trữ trong kho của triều đình. Phần sáp nhiễu ra thường là các cung nhân mang đi vứt, nhưng bà sai người gom góp lại, để dành đến lúc nhiều thì mang đúc thành cây đèn sáp mới.
Bà vẫn thường nói với quan hầu rằng: Ta thuở nhỏ gia đình tuy không dư dả nhưng cũng đủ ăn. Vậy mà các thứ dầu nước không đủ thắp cho trọn đêm, huống nay ngửa nhờ ơn trời đất, tổ tông được giàu có trong bốn bể, một sợi tơ, một hạt lúa cũng là dầu mỡ của dân, nếu xài phung phí thì đã không ích chi mà còn rất tiếc. Lâu nay, tấn nạp cho ta toàn những đồ châu báu và gấm vóc sô tơ… tất cả ta đều giao lại cho quan kho cất giữ. Vì bổn tính ta không thích sự hào nhoáng. Sách có chữ "xa xỉ ấy triệu nghèo, kiệm cần là nguồn phước" nên con cháu phải nhớ lấy!
 Hoàng Thái hậu Từ Dũ.
Là Hoàng quý phi của Vua Thiệu Trị, là Hoàng Thái hậu của Vua Tự Đức nhưng đương thời làm việc gì, tiêu cái gì dù nhỏ nhất bà cũng nghĩ tới dân. Có dịp mừng thọ bà Từ Dũ, Vua cũng như triều thần muốn tổ chức trọng thể cho bà, nhưng bà đã lấy lý do dân còn nghèo, thiên tai còn gây mất mùa, đói kém để mà từ chối… Bà còn là người rất có công trong việc mang nhiều giống cây ăn trái ở quê bà xứ Gò Công và cả những giống cá cũng như công thức làm nhiều loại mắm đến với xứ Huế quê chồng…
Bà Từ Dũ là người đã sinh ra Vua Tự Đức và bà cũng là người nuôi nấng, dạy học cho Vua. Bà vô cùng nhân hậu nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc. Suốt 36 năm ngồi trên ngai vàng để trị vì đất nước, nhưng các lễ nghi giao tiếp giữa Vua Tự Đức với Hoàng Thái hậu Từ Dũ vẫn không hề thay đổi. Trong suốt thời gian ngồi trên ngôi báu, Vua Tự Đức đã dường như có một thời khóa biểu cố định cho mình.
Đó là, ngày lẻ thì Vua nghị triều bàn bạc việc nước với quần thần; ngày chẵn thì vào chầu Thái hậu. Cho dù về sau này Hoàng Thái hậu tuổi ngày một cao, nhưng bà vẫn luôn là một con người mẫn tuệ, có những việc đã qua rất lâu, những lời ai nói lúc nào, năm nào, sử sách kinh điển thế nào, nói gì bà đều nhớ như in, cho nên Vua Tự Đức có rất nhiều chuyện phải nhờ tới Hoàng Thái hậu…
Về sau này, thông qua sử sách nhiều người trong chúng ta đều biết: Cuộc đời của Vua Tự Đức có lắm chuyện buồn phiền. Để giải khuây, ông thường đi săn bắn hoặc là xem hát bội. Thấy săn bắn là sát sinh nên bà Từ Dũ đã can ngăn Vua đừng nên săn bắn. Có lần Vua Tự Đức dâng lên cho mẹ mấy con chim vừa mới bắn được, bà lựa ra những con chim bị thương nhưng còn khả năng sống được, đem xức thuốc, nuôi nấng cho lành rồi thả chúng về với thiên nhiên.
Rồi bà lấy chuyện Cao Hoàng hậu đã dạy để nhắc nhở Vua Tự Đức: vật cũng như người, bắn chết con trống thời con mái thương nhớ, bắn con con thời con mẹ thảm buồn, rứa thời bắn mà làm chi? Muốn tập bắn thời bắn súng điểu thương cho quen, bắn bia hay hơn. Tự hậu phải bớt bớt đi, chẳng nên sát hại sanh vật.
Thân Trọng Huề, một vị quan dưới triều Vua Tự Đức có kể một câu chuyện về việc giáo huấn của Hoàng Thái hậu Từ Dũ với Vua Tự Đức như sau: Một hôm rảnh việc triều chính, Vua Tự Đức ngự săn bắn tại rừng Thuận Trực, bên bờ sông Lợi Nông. Vì sợ mưa phải đi gấp, nhà vua không kịp bẩm mạng, ông dặn nữ quan ở nhà tâu lên bà hay. Chẳng hay nữ quan bận rộn công việc nên quên không tâu. 
Đến khi trời mưa to điềm báo sắp có lụt lớn bà mới hay Vua Tự Đức đi săn nên bà hết sức lo âu. Hơn nữa, trong Nội chỉ hai ngày nữa là đến dịp kỵ Đức Hiến Tổ (Vua Thiệu Trị) mà vua Tự Đức chưa về thì không biết phải sắp đặt ra sao. Sốt ruột, bà liền sai quan Đại thần Nguyễn Tri Phương đi rước. Đi được nửa đường, cụ Nguyễn Tri Phương thấy thuyền ngự đang chèo lên. Vì nước chảy mạnh nên dù đã cố sức thuyền cũng không thể đi mau được. Gần tối, thuyền ngự mới về tới Nghinh Lương.
Ngoài trời vẫn mưa như trút, Vua Tự Đức vội vã lên kiệu trần ngự thẳng vào cung Gia Thọ, lạy xin chịu tội với mẹ. Giận con, bà Từ Dũ quay mặt vào màn, không nói không rằng. Vua Tự Đức đã tự tay lấy một cây roi mây dâng lên đặt trên tràng kỷ rồi nằm dài xuống xin chịu đòn.
Sau một hồi lâu, bà xoay mặt ra, đưa tay hất cây roi mà ban rằng: Có một mẹ một con, con đi đâu lâu, thời mẹ ở nhà trông đợi lắm. Sao con không báo cho mẹ hay trước? Thôi tha cho. Đi chơi để quan quân cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta. Vua Tự Đức khấu đầu lạy tạ lỗi: "Từ nay con không dám như vậy nữa".
Tấm bia Vua Tự Đức ghi tạc công đức của ông ngoại mình là Thượng thư Phạm Đăng Hưng. 
Khi Vua lui ra bà còn dặn: "Lo ban thưởng cho xong để ngày mai còn đi hầu kỵ. Vua rời cung Gia Thọ. Đêm hôm ấy tại Điện Cần Thành Vua đã thức rất khuya để thực hiện những điều mẹ dạy.
Vua Tự Đức bẩm sinh sức khỏe yếu, nên có một giai đoạn việc triều chính nhiều lúc bị trễ nải nên đã tạo điều kiện cho một số quan lại lợi dụng thời cơ lộng quyền vơ vét… Thấy tình hình không ổn, Tiến sĩ Phạm Phú Thứ đã dâng sớ đàn hạch Vua sao nhãng chuyện quốc sự. Tự Đức đọc xong thấy có nhiều lời hàm ý chê trách, nên giận đến tái mặt.
Nhân đó, bọn gian thần hùa theo để kết tội Phạm Phú Thứ. Vua phạt Phạm Phú Thứ phải "Tiền quân hiệu lực", tức là làm sai dịch trong quân đội ở Trạm Thừa Nông. Tin ấy đến tai bà Từ Dũ. Ngay lập tức bà cho vời Vua vào hỏi: "Ông Phạm dâng sớ trách cái tính lười biếng của con, thì ông ấy được lợi gì?". Vua Tự Đức thưa: "Ông ấy không được lợi gì, nhưng bề tôi sao dám chê trách Vua nặng lời như thế?".
Thái hậu nhẹ nhàng với con: "Khi thương người ta mới giận. Mà đã giận thì hay quá lời. Còn những người bẩm bẩm dạ dạ có chắc họ trung với Vua không?". Vua Tự Đức cúi đầu im lặng. Thái hậu nói tiếp: "Ông Phạm làm lính, có thấy ông ấy buồn không?". Vua Tự Đức thưa: "Thưa, nghe người ta bảo ông ấy không buồn mà hình như còn tỏ ra vui vẻ".
Bà Từ Dũ nói: "Con thấy không, người trượng phu không phải vui ở chức tước, mà cốt là ở những việc làm chân chính không hổ thẹn với lòng mình". Vua Tự Đức hiểu ra, sụp lạy mẹ. Ngay sau đó, Tiến sĩ Phạm Phú Thứ được triệu về kinh, được khôi phục phẩm hàm chức tước. Giao công việc mới ở Sở Tu Thư.
Rõ ràng, cách nhìn nhận đánh giá của bà Từ Dũ là rất chính xác, chí lý, chí tình. Sau này, Phạm Phú Thứ đã tham gia vào đoàn sứ bộ sang Pháp để điều đình chuộc lại đất lục tỉnh. Ông đã ghi lại những điều tai nghe mắt thấy về văn minh phương Tây, trên cơ sở đó, ông đã đề xuất với Vua nhiều ý kiến về canh tân đất nước.
Bà Từ Dũ vẫn thường nhắc Vua Tự Đức rằng: "Từ xưa tới nay, quan lại chỉ một chữ tham mà chưa trừ được. Mọt nước hại dân cũng từ đó mà ra. Làm quan mấy năm vị nào cũng giàu có gấp bội. Của ấy không lấy của dân thì lấy ở đâu ra?
Là bậc mẫu nghi thiên hạ, muốn gì được nấy, nhưng bà đã không vì vậy mà nâng đỡ những người bà con dòng họ của mình. Có lần, có người cùng trong tộc Phạm Đăng của bà từ Gò Công ra đến Huế để xin chức tước. Khi được Vua Tự Đức hỏi ý kiến bà đáp rằng: "Người trong họ ta không có công lao thì không được ban tước lộc. Nếu có ai làm điều sai quấy thì phải nghiêm trị theo phép nước để răn đe người đời…".
Năm Quý Mùi (1883), Vua Tự Đức băng hà, để lại di chiếu tấn tôn bà làm Từ Dũ Thái hoàng Thái hậu, nhưng gặp lúc đất nước đang trong cơn biến loạn.
Tháng 5 năm Ất Dậu (1885), kinh đô thất thủ, Vua Hàm Nghi phải bôn tẩu ra thành Tân Sở để hạ chiếu Cần Vương kêu gọi những người ái quốc tụ họp lại để cùng nhau đánh Pháp. Bà Từ Dũ đã theo Vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị nhưng sau đó vì già yếu nên bà đã phải theo tam cung để trở về lại Huế, sống âm thầm lặng lẽ cho đến khi qua đời ở tuổi 93.
Cuộc đời của bà Từ Dũ từ khi được tiến cung cho đến khi mất là một quãng thời gian rất dài. Bà là người sống thọ nhất trong tất cả những bà hoàng của triều Nguyễn. Bà là người đã chứng kiến rất nhiều khúc đổi thay thăng trầm của hoàng tộc. Trước sau như vậy, bà Từ Dũ Phạm Thị Hằng đã có một cuộc đời tỏa sáng, nhân đức của bà đã được hậu thế lưu danh.
Theo An ninh thế giới

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét