Trịnh Tạc (1606-1682) là con trai thứ hai của Thanh đô vương Trịnh Tráng, em của Trịnh Kiều. 9 tuổi Trịnh Tạc được ông nội là chúa Trịnh Tùng phong làm Tây quận công rồi lên tước Thái Bảo, Thái úy. Ông nhiều lần cầm binh đánh trận với nhà Nguyễn ở Đàng trong, để giữ vững bờ cõi nước Đại Việt cho nhà Lê trung hưng. Trịnh Tạc cũng được chúa cha cho tham gia bàn việc nước, giao trấn giữ xứ Sơn Nam - một trong 4 trấn quan trọng khu vực đồng bằng Bắc Bộ.
Năm 1642, con cả của chúa Trịnh Tráng là Thái úy Sùng quốc công Trịnh Kiều chết. Con trai của Kiều là Trịnh Hoành tuổi còn nhỏ nên Trịnh Tạc được cho nối ngôi thế tử. Trịnh Tạc sau đó được tiến phong làm Khâm sai tiết chế các xứ thuỷ bộ, tả tướng Thái uý Tây quốc công, cho mở phủ Khiêm Định, mọi công việc của nhà nước đều giao cho xử quyết.
10 năm sau khi chúa Trịnh Tráng vẫn đương quyền, Trịnh Tạc tiếp tục được quan lại triều đình xin tiến phong tước vương và nhà vua đồng ý cho làm Nguyên soái chưởng quốc chính Tây Định Vương. Ông trở thành vị chúa thứ ba của họ Trịnh.
Việc con thứ Trịnh Tạc được ưu ái nối ngối vương khiến một số con cháu họ Trịnh bất bình. Khi Trịnh Tạc mới được giao làm Thái úy, cho xử quyết mọi việc quốc gia, anh em của ông là Thái bảo Phù quận công Trịnh Lịch - người được giao trấn giữ xứ Sơn Tây và Hoa quận công Trịnh Sầm - trấn giữ xứ Hải Dương "hận vì bất đắc chí, liền nổi quân làm loạn", theo Đại Việt sử ký toàn thư.
Năm 1657, khi chúa cha Trịnh Tráng chết, người con út của ông là Ninh quốc công Trịnh Toàn đang trấn giữ xứ Nghệ An và được nhiều người tín phục, cũng mưu đồ làm phản, chống lại anh trai Trịnh Tạc. Toàn sau đó bị tống giam trong ngục.
Ổn định xong việc nhà, Trịnh Tạc sau đó được tôn lên làm Đại nguyên soái chưởng quốc chính Thượng sư Tây vương. Ông chuyên tâm chấn chỉnh quốc gia, cho cải cách kinh tế, xã hội, giáo dục, đưa nước Đại Việt đi lên. Giai đoạn Trịnh Tạc cầm quyền cũng là thời trịnh trị của họ Trịnh.
Một quan ngự sử ăn đút lót đã bị Trịnh Tạc xử tội chết
Dưới thời Trịnh Tạc, kỷ cương phép nước được làm rất nghiêm. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại rất nhiều lần chúa Trịnh mạnh tay xử lý các quan làm sai việc nước. Trong đó, tội ăn đút lót bị Trịnh Tạc áp mức hình cao nhất - xử tử.
"Thiêm đô ngự sử Phùng Viết Tu bẻ cong phép nước, ăn của đút lót. Việc phát giác, xử tội thắt cổ chết... Án có liên quan đến đồng tri phủ Trương Văn Lĩnh, khi còn trị nhậm ở phủ Quốc Oai có nhận của đút, phải xử tử. Văn Lĩnh đã ngoài 70 tuổi cũng đem hành hình, người đương thời ai cũng thương", Đại Việt sử ký toàn thư viết.
Nhiều quan to triều đình như Tể tướng Hình bộ Thượng thư, Đông các hiệu thư, Lại bộ hữu thị lang, Binh bộ hữu thị lang... cũng bị bãi chức tước, giáng cấp vì tự tiện sắc chỉ, cấp bằng phê cho lại điểm nha môn làm việc không đúng chức trách.
Thậm chí, con rể của Trịnh Tạc là Nguyễn Đức Trung vì làm điều phi pháp, lạm chức, tàn nhẫn với người khác cũng bị chúa Trịnh nghiêm trị. Nguyễn Đức Trung vì có công đánh giặc nên chỉ bị bãi tước quan, tha cho tội chết, nhưng 3 người con thì bị xử tử.
"Có lệnh chỉ rằng các quan quản binh không được giữ binh lính ở nhà để xoay lấy tiền của"; "Tướng hiệu cai quản phải chăm sóc quân lính, nếu có người ốm đau thì cấp cho thuốc thang nuôi nấng"; "Khi trưng thu tiền thuế hoặc vâng mệnh đi mua hàng hóa để cung dụng, không được yêu sách ngoài lệ và mua hiếp giá rẻ để dẹp lòng dân"... Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại một số quy định về quan chế dưới thời Trịnh Tạc.
Nghiêm trị các quan lại làm càn, chúa Trịnh Tạc đồng thời ban thưởng cho quan làm tốt việc nước. Năm 1674, ông ra một lệnh chỉ gồm hơn 10 điều răn dạy các chức ty, trong đó có yêu cầu: không được lấy lòng riêng mà xét việc nước; phải biết can gián và trình báo người làm sai; khi xử án nếu thấy án nặng phải cùng nhau xét xử để ra được bản chất vấn đề, tạo công bằng cho người dân..
.
Trịnh Tạc thu thuế đinh theo tài sản thực tế của mỗi người dân
Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết, năm 1669 chúa Trịnh Tạc quy định lại việc thu thuế đinh của nhân dân. Thay vì bổ đều mức thuế, ông cho quan đi khắp nước kiểm tra tài sản thực tế của mỗi người dân "xem nhiều hay ít, ruộng đất tốt hay xấu", rồi căn cứ vào đó thu của mỗi người mức thuế khác nhau. Quan và dân mỗi bên giữ một bản kê khai tài sản, thuế khóa để làm bằng chứng, lệ này được áp dụng lâu dài.
Là người quan tâm đến đời sống người dân, chúa Trịnh Tạc nhiều lần đi thực tế thăm dân gian. Ông lệnh cho dân xã thôn các xứ rằng: "Nếu xã thôn nào có lệnh phú dịch nặng thì khai lên, giao cho quan giám đốc bình lệ xét thực, sẽ lượng giảm bớt cho, chia san cho các xã trong huyện cùng chịu, để việc phú dịch được công bằng", Đại Việt sử ký toàn thư viết.
Khi lũ lụt làm tổn hại nông nghiệp của 4 trấn trong nước, chúa Trịnh cho giảm tiền thuế đinh. Ông đồng thời cấm quan khuyến nông và quan hà đê đòi tiền của dân.
Những điều lệnh của Trịnh Tạc được "thiên hạ gần xa ai cùng mừng", sách Đại Việt sử ký toàn thư viết.
Trịnh Tạc cho phúc khảo 3 khóa thi khi dư luận xôn xao có gian lận
Năm 1644, triều đình Lê - Trịnh tổ chức thi hội các nhân sĩ trong cả nước, lấy được 13 người. Kỳ thi này được tổ chức một năm sau thi Hương, thi Hương 3 năm một lần.
Khi dư luận xôn xao về việc thi cử gian lận, chúa Trịnh Tạc ngay lập tức cho phúc khảo lại các sinh đồ. "Trước đây phép thi lỏng lẻo, còn cho mang sách. Từ năm Canh tý đến nay, tuy đã cấm chỉ, nhưng vẫn chưa được chặt chẽ, người thi đỗ phần nhiều dốt dát, nhờ người làm bài, dư luận xôn xao. Đến đây, sai quan phúc khảo sinh đồ ba khoa Đinh Dậu (1657), Quý Mão (1663) và Canh Tý (1660)... Người nào đỗ vẫn được là sinh đồ, người nào hỏng phải ở lại 3 năm học tập, cho miễn tạp dịch. Nếu thi lại lần nữa vẫn không đỗ mới trở về làm dân, chịu tạp dịch. Bấy giờ hỏng đến quá nửa", sách Đại Việt sử ký toàn thư viết.
Chúa Trịnh đồng thời nghiêm trị các quan làm sai chuyện thi cử. Ông giáng chức của Hữu đô đốc Lại quận công Trịnh Bách, đô đốc đồng tri toản quận công Trịnh Sâm vì cùng làm đề thi nhưng không biết cấm giữ thủ hạ để họ ăn đút vàng bạc, làm thi sai. Cùng năm đó, Trịnh Tạc ra lệnh "cấm tự tiện cho chức tước". Khi ấy, những kẻ được tin yêu, nhiều người xin bừa chức tước và phong tặng khiến quan tước nhũng nhiễu, nên chúa Trịnh ra lệnh này.
Trịnh Tạc đã thuận theo ý nguyện của nhà vua trong việc đưa ai lên nối ngôi
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1662, vua Lê Thần Tông bệnh nặng đã chỉ dụ nhờ chúa Trịnh Tạc giúp đỡ, đưa con ruột của ông là Lê Duy Vũ (9 tuổi) nối ngôi. Trước đây vua chưa có con nên lấy người khác họ là Duy Tào lập làm Thái tử, nay muốn phế đi.
Thay vì tự ý sắp đặt việc lên ngôi của vua Lê như các đời trước, Trịnh Tạc đã gọi các quan văn võ vào nhận cố mệnh. Chúa - quan sau đó đồng lòng làm theo ý nguyện của nhà vua, phế Duy Tào làm thứ dân cho theo về họ mẹ và tôn Duy Vũ làm hoàng thái tử. Cùng năm đó Lê Thần Tông chết, Duy Vũ được đưa lên làm vua, hiệu là Lê Huyền Tông.
Vua Huyền Tông ở ngôi được 9 năm thì chết, khi ấy 18 tuổi, không có con nối dõi. Trịnh Tạc lại đưa Duy Cố - người con được vua Lê Thần Tông trước khi chết đã khẩn khoản nhờ chúa Trịnh chăm nuôi ở phủ chúa, dạy dỗ nên người.
"Ta vâng lời ký thác, chăm nom nuôi dưỡng trong phủ, giúp đỡ dạy bảo nghe lời ngay, theo đạo chính, hàng ngày cho nghe cho làm việc nước. Nay 11 tuổi, đã lớn, đức đã thành, sớm nổi tiếng hiền tài hiếu thảo, có thể nối được nghiệp lớn, nên tôn lập lên ngôi hoàng đế để thỏa lòng trông đợi của thần dân trong nước..." Đại Việt sử ký toàn thư chép lại lời bố cáo của Trịnh Tạc với quan văn võ triều đình về việc lập vua.
Duy Cối nối ngôi được người đời ca ngợi "khoan hòa, có đức độ của người làm vua" nhưng khi 15 tuổi lại bệnh chết. Trịnh Tạc lần nữa đưa người con mà Lê Thần Tông nhờ ông chăm sóc là Lê Duy Cáp lên ngôi, trở thành vua Lê Hy Tông. Dưới sự dìu dắt của Trịnh Tạc, Hy Tông được người đời ca ngợi là vị vua anh minh đức độ bậc nhất thời Lê Trung Hưng.
Tại vị ngôi chúa 25 năm, giúp vua Lê dẹp sạch tàn dư họ Mạc ở Cao Bằng, tạo nhiều thành tựu trong cuộc cải cách kinh tế - xã hội - văn hóa, được người dân ca tụng, năm 1682 Tây Định vương Trịnh Tạc qua đời, thọ 76 tuổi.
>>Quay lại
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét