Hô một tiếng 4 quận, 65 thành cùng nhất tề hưởng ứng
BT sưu tầm - SGK Sử lớp 6, tr 48-49
Mùa xuân năm 40, tháng 3 dương lịch, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn, cùng nhiều nghĩa sĩ khắp cả nước nổi dậy khởi nghĩa, tấn công quân Hán.
Bấy giờ ở huyện Mê Linh (vùng đất từ Ba Vì đến Tam Đảo, nay thuộc Hà Nội, Vĩnh Phúc), có hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị là con gái Lạc tướng quân thuộc dòng dõi Hùng Vương. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách, con trai Lạc tướng huyện Chu Diên ( vùng Đan Phượng và Từ Liêm, Hà Nội).
Hai gia đình Lạc tướng cùng nhau mưu việc lớn. Họ bí mật tìm cách liên kết với các thủ lĩnh ở mọi miền đất nước để chuẩn bị nổi dậy. Không may, Thi Sách bị quân Hán giết.
Mùa xuân năm 40 (tháng 3 dương lịch), Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn (Hà Nội). Tương truyền, ngày xuất quân, bà Trưng Trắc đã đọc lời thề, sau này được viết thành 4 câu thơ:
"Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng,
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này".
(Thiên Nam ngữ lục, áng sử ca dân gian thế kỉ XVII)
Theo truyền thuyết, nghe tin Hai Bà Trưng nổi dậy, Nguyễn Tam Trinh (Mai Động) đã dẫn 5.000 nghĩa binh, nàng Quốc (Hoàng Xá - Gia Lâm) dẫn hơn 2.000 tráng sĩ, ông Cai (Thanh Oai - Hà Nội) với đội nữ binh hơn 3.000 người, bà Vĩnh Huy (Cổ Châu - Bắc Ninh) với hơn 1.000 tráng đinh, bà Lê Chân (Hải Phòng), bà Thánh Thiên (Bắc Ninh), bà Lê Thị Hoa (Thanh Hóa)... cùng kéo về Mê Linh.
Nghĩa quân nhanh chóng đánh bại kẻ thù, làm chủ Mê Linh, rồi từ Mê Linh, tiến đánh Cổ Loa và Luy Lâu. Tô Định hoảng hốt phải bỏ thành, cắt tóc, cạo râu, lén trốn về Nam Hải (Quảng Đông - Trung Quốc). Quân Hán ở các quận khác cũng bị đánh tan.
Cuộc khởi nghĩa đã giành được thắng lợi.
Trưng Trắc, Trưng Nhị là phụ nữ, hô một tiếng mà các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại, đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương".
Lê Văn Hưu (Nhà sử học thế kỉ XIII)
Trước khi hy sinh oanh liệt, Hai Bà Trưng vẫn khiến gần 1 vạn quân địch bỏ mạng
Sau khi khởi nghĩa thành công, Trưng Trắc được suy tôn làm vua. Tuy nhiên chỉ sau vài năm, nhà Hán lại quyết đem quân sang xâm lược.
1. Hai Bà Trưng đã làm gì sau khi giành lại độc lập?
Sau khi đánh đuổi được quân đô hộ, Trưng Trắc được suy tôn làm vua (Trưng Vương), đóng đô ở Mê Linh và phong chức tước cho những người có công, thành lập chính quyền tự chủ.
Các lạc tướng được giữ quyền cai quản các huyện. Trưng Vương xá thuế hai năm liền cho dân. Luật pháp hà khắc cùng các thứ lao dịch nặng nề của chính quyền đô hộ bị bãi bỏ.
Được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, vua Hán nổi giận, hạ lệnh cho các quận miền Nam Trung Quốc khẩn trương chuẩn bị xe, thuyền, làm thêm đường sá, tích trữ lương thực để sang đàn áp nghĩa quân.
2. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Hán (42-43) đã diễn ra như thế nào?
Mã Viện là một viên tướng đã từng chinh chiến ở phương Nam, được vua Hán phong làm Phục ba tướng quân, chỉ huy đạo quân xâm lược gồm hai vạn quân tinh nhuệ, hai nghìn xe, thuyền các loại và nhiều dân phu. Tháng 4 năm 42, quân Hán tấn công Hợp Phố. Quân ta ở Hợp Phố đã anh dũng chống trả rồi rút lui.
Mã Viện chiếm được Hợp Phố, liền chia quân thành hai đạo thủy, bộ tiến vào Giao Chỉ. Đạo quân bộ men theo bờ biển, đẵn cây mở đường mà đi, chúng lẻn qua Quỷ Môn Quan ( Tiên Yên - Quảng Ninh) xuống vùng Lục Đầu. Đạo quân thủy từ Hợp Phố vượt biển vào sông Bạch Đằng, rồi ngược lên vùng Lục Đầu. Tại đây, hai cánh quân thủy, bộ hợp lại ở Lãng Bạc.
Hai Bà Trưng kéo quân đến vùng Lãng Bạc để nghênh chiến. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt.
Lãng Bạc nằm ở phía đông Cổ Loa (gần Chí Linh - Hải Dương). Đây là một miền đồi đất cao, xung quanh là vùng đồng sâu, hồ nước mênh mông,
Mã Viện, sau này nhớ lại, vẫn kinh hoàng kể về vùng Lãng Bạc: "Dưới nước lụt, trên mây mù, khó độc bốc lên ngùn ngụt, ngẩng trông lên là thấy chim diều hâu đang bay đã bị rớt xuống nước chết". Một viên tướng là Bình Lạc hầu Hàn Vũ đã chết ở đây.
Quân ta lùi về giữ Cổ Loa và Mê Linh. Mã Viện truy đuổi ráo riết, quân ta phải rút về Cấm Khê (thuộc vùng Ba Vì - Hà Nội). Tại đây, quân ta ra sức cản địch, giữ từng xóm làng, tấc đất. Cuối cùng, tháng 3 năm 43 (ngày 6 tháng Hai âm lịch), Hai Bà Trưng đã hi sinh oanh liệt trên đất Cấm Khê.
Sau khi Hai Bà Trưng hi sinh, cuộc kháng chiến vẫn tiếp tục đến tháng 11 năm 43. Mùa thu năm 44, Mã Viện thu quân trở về Trung Quốc. Quân đi mười phần, khi về chỉ còn bốn năm phần.
theo Helino
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét