
Trịnh Tráng (1577-1657) là con của Bình An Vương Trịnh Tùng - chúa đầu tiên của họ Trịnh. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép, từ trẻ ông đã tham gia cầm binh, giúp cha dẹp giặc tứ phương. "Tháng 8 năm 1613, sai thái phó Thanh quận công Trịnh Tráng đi dẹp các xứ Yên Quảng để mở rộng bờ cõi. Đi đến đâu, nhân dân quy phụ đến đấy"; "Tháng 2 năm 1618 sai Thái phó Thanh quận công Trịnh Tráng đem thuộc tướng... đánh Khánh vương họ Mạc và bọn Trí Thủy ngụy. Đẳng giặc nghe tin đều trốn xa", sách viết.
Với những chiến công lớn, năm 1623 khi chúa cha Trịnh Tùng bệnh nặng, Trịnh Tráng được các triều thần đề nghị giữ binh quyền. Vua Lê sau đó tiến phong Trịnh Tráng làm tiết chế các xứ thủy bộ chư dinh kiểm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự Thái úy Thanh quốc công, được giao cho xử quyết mọi chuyện quốc gia.
Tháng 11/1623, Trịnh Tráng được sách phong làm Nguyên soái thống quốc chính Thanh Đô Vương, chính thức trở thành chúa thứ hai của họ Trịnh.
"Thái úy Thanh quốc công Trịnh Tráng, đức nghiệp giống như người trước, anh hùng hơn hẳn đời xưa. Khi cầm quân thì trăm trận ra oai, dẹp yên bờ cõi, lúc lập kế thì lòng người đều phục, dựng lại nước nhà...", sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại lời kim sách phong tước vương cho Trịnh Tráng.
Trịnh Tráng quy định chỉ tịch thu tài sản của gia đình, thân quyến phạm nhân
Sau nhiều năm chiến tranh giữa Lê - Mạc, nước Đại Việt đi vào thế ổn định, kinh tế phát triển, mối quan hệ giữa các giai tầng xã hội trở nên phức tạp hơn. Thanh đô vương Trịnh Tráng - người nắm thực quyền cai quản đất nước - đã cho sửa một số điều luật để điều chỉnh những mối quan hệ này. Ông đặc biệt chú trọng đến bình ổn lòng dân, tạo công bằng trong xã hội.
"Tháng 4 năm 1639, định rõ lại việc kiện tụng nhân mạng... phạm nhân chỉ bị tịch thu ruộng đất, tài sản của bản thân và vợ con. Nếu không đủ thì cho khai lấy ruộng đất, tài sản của cha mẹ, anh em làm tiền đền mạng, không được bắt đền cả họ hàng, làng xóm; coi đó là điều luật lâu dài", Đại Việt sử ký toàn thư viết.
Quan tâm đến đời sống nhân dân, chúa Trịnh Tráng cho xá một nửa thuế đinh trong nước để đỡ gánh nặng cho người dân sau chiến tranh. Ông đồng thời ra các điều luật yêu cầu người dân trung thực, chấp hành tốt việc nước. "Cấm nhân dân không được làm thư nặc danh lưu truyền chuyện không đâu để làm mê hoặc lòng người", "cấm dân gian không được mạo nhận càn chức tước để trốn binh", "trừ bỏ thói kiện cáo gian lận của bọn tiểu thương", sách Đại Việt sử ký ghi lại những thay đổi trong điều luật mà chúa Trịnh đề ra
Trịnh Tráng nghiêm cấm quan lại cai trị hà khắc, phải lấy dân làm gốc
Trong việc cai quản đất nước, chúa Trịnh Tráng rất chú trọng nhắc nhở quan lại làm việc công bằng, thanh liêm, chăm chỉ. Năm 1635, ông định ra 12 điều cấm quan cai trị hà khắc, răn cấm nha môn tra xét để đọng việc kiện tụng. Ông còn nhiều lần cho người đi nhắc nhở các quan thi hành 12 điều nghiêm răn này, để họ hiểu rõ việc chức vụ và lấy dân làm gốc.
"Vương bàn với các quan giúp việc, cho là hiện nay kỷ cương của thiên hạ cốt ở việc công bằng khám xét kiện tụng và dẹp bắt trộm cướp...", sách Đại Việt sử ký toàn thư chép.
Chúa Trịnh Tráng cấm nhà quan trưởng, các công sở cho người ra chợ uy hiếp lấy không hàng hóa, đồ vật của khách thương mại. Nếu trái phép, quan môn có đủ chứng cứ, tang vật, sẽ phạt nặng.
Trịnh Tráng mở cửa giao thương với phương Tây
Giữa thế kỷ 17, người Bồ Đào Nha và Hà Lan mở rộng buôn bán ở Đàng ngoài. Chúa Trịnh Tráng khi đó đã mở cửa cho họ giao thương. Ông cho phép người Hà Lan và sau đó là người Nhật, Bồ Đào Nha... được mở các cửa hàng kinh doanh ở phố Hiến (Hưng Yên), khiến nơi này trở thành trung tâm mua bán sầm uất. Câu ca "thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến" ra đời bởi lẽ đó.
Thời Trịnh Tráng, cuộc xung đột giữa Đàng trong do các chúa Nguyễn nắm quyền và Đàng ngoài do họ Trịnh cai quản (vua Lê không có thực quyền) bắt đầu. Dựa vào mối quan hệ với phương Tây, chúa Trịnh đã nhờ người Hà Lan trợ giúp thuyền, binh lính và đại bác để chống lại chúa Nguyễn. Trong cuộc chiến giữa hai Đàng những năm 1641-1644, quân đội phương Tây đã giúp sức cho họ Trịnh, nhưng bị chúa Nguyễn phá tan.
Ngọc Trúc lớn tuổi hơn vua, từng kết hôn với bác họ của vua
Đại Việt sử ký toàn thư viết, năm 1630 vua Lê Thần Tông lấy con gái của Thanh đô vương Trịnh Tráng là Trịnh Thị Ngọc Trúc, lập làm hoàng hậu.
"Trước đây, Ngọc Trúc đã lấy bác họ vua là Cường quận công Lê Trụ, sinh được 4 con. Khi ấy, Lê Trụ bị giam trong ngục. Vương đem Ngọc Trúc gả cho vua, vua lấy vào cung. Triều thần là bọn Nguyễn Thục, Nguyễn Danh Thế nhiều lần dâng sớ can. Vua không nghe và nói: Xong việc thì thôi, lấy gượng vậy", sách viết.
Việc Trịnh Tráng ép vua lấy người hơn 12 tuổi, từng kết hôn và có con, được cho là cách để vị chúa này thâu tóm quyền lực. Ông ngoài ra giao cho các con trai mỗi người coi giữ một trấn lớn (tương đương một tỉnh), vừa để giữ yên việc nước, vừa để giữ vững quyền lực gia đình.
Dù lạm chức để gây dựng và ổn định quyền lực của dòng họ, nhưng về cơ bản chúa Trịnh Tráng vẫn được lòng người vì làm được nhiều điều tốt, giữ yên việc nước.
"Chúa tính trời hiếu thảo, thân ái mọi người, rộng lòng khoan thứ; khi mới cầm quyền, tuổi đã 47. Bình xong nội nạn, hòa hợp nhân dân, trong nước yên ổn, tín nhiệm nho thần, giảng cầu chính trị, chấn cử kỷ cương, mọi việc đều giao cho triều đường công luận, chúa cung kính khiêm nhường, cẩn thận giữ gìn pháp độ, ba lần đánh Thuận Hóa, chỉ dùng văn cáo để mở bảo, không muốn dụng binh đến cùng, lặn lội ở nơi xa... Cho nên cái phúc nuôi dưỡng yên ổn hòa bình thật là dày lắm...", Đại Việt sử ký toàn thư bản kỷ tục biên của Phạm Công Trứ viết.
Năm 1657, Thanh Đô vương Trịnh Tráng chết, thọ 81 tuổi, cầm quyền 34 năm, được truy tôn là Nghị Vương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét