Thứ Năm, 25 tháng 10, 2012

Bộ đồ ăn trầu của tầng lớp quý tộc Việt


Khoảng 100 hiện vật, tài liệu và hình ảnh tiêu biểu liên quan tới tập tục ăn trầu truyền thống của người Việt vừa được lựa chọn giới thiệu trong triển lãm 'Văn hóa Trầu cau Việt Nam' tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia sáng 24/10.

Tục ăn trầu ở Việt Nam có từ lâu đời và để tận hưởng cái thú này, người ăn trầu cũng phải thực hiện một loạt công đoạn khá cầu kỳ, bằng bộ dụng cụ gồm bình vôi, ống vôi, xà tích, chìa vôi; dao bổ cau têm trầu; khay, cơi, hộp, âu, giỏ, tráp, túi, khăn, đẫy; ống nhổ; cối, chìa ngoáy. Với tầng lớp quý tộc cung đình triều Nguyễn, bộ đồ ăn trầu thường được làm bằng vàng, bạc, đồng....
... hoặc pha lê, kim sa hay ngọc.
Bình vôi quai hình buồng cau làm từ gốm Hoa Lam đầu thế kỷ 20 dùng để đựng vôi, lấy vôi têm trầu. Đây là vật dụng không thể thiếu và giữ vai trò quan trọng. Cũng như các loại vật dụng khác, bộ dụng cụ ăn trầu thể hiện rõ đẳng cấp người sử dụng.
Ống vôi được làm bằng bạc và đồng với nhiều hình thù khác nhau.
Ống vôi và hộp thuốc lào thường được chủ nhân đeo vào người để tiện dùng mỗi khi cần.
Ống nhổ trạm nổi hình rồng bằng vàng thời Nguyễn dùng để nhổ bỏ nước trầu, bã trầu.
Hộp trầu bằng đồng thời Lê Sơ (thế kỷ 15) dùng để đựng trầu, thuốc và xếp các vật dụng nhỏ.
Cối giã trầu của dân tộc H'rê (hình 1) và Hộp thuốc lào của dân tộc Thái (hình 2) dành cho những người lớn tuổi, răng yếu dùng để giã nát trầu trước khi nhai.
Cách têm trầu cũng thể hiện sự cầu kỳ, tinh tế. Tùy từng hoàn cảnh mà trầu được têm theo mỗi cách khác nhau với ý nghĩa biểu trưng khác nhau: Trầu cánh phượng, cánh kiến, cánh quế, mũi mác. Trong ảnh, nghệ nhân Vũ Thị Tuyết Lan (61 tuổi, ở Bắc Ninh) đang têm trầu cánh phượng mời các vị khách tới thăm triển lãm.
Trầu têm cánh phượng là biểu tượng cho sự duyên dáng, quyến rũ và khéo léo của phụ nữ Việt Nam. Trầu cánh phượng hay còn gọi là trầu quan họ có 11 cánh. Để têm được miếng trầu này, phải chọn quả cau cân hạt, lá trầu bánh tẻ và mỗi miếng trầu được cài thêm cánh hoa hồng. Cách nhai trầu cũng rất cầu kỳ, dùng từ lá trầu, quét một ít vôi đã tôi vào đầu lá trầu kèm theo một miếng cau cho vào miệng nhai nát. Ngoài ra có thể thêm vỏ chay, vỏ quạch, vỏ quế và thuốc lào. Khi nhai, hương vị của hỗn hợp trầu - cau - vôi sẽ làm cho người nhai trầu có cảm giác cay cay và hơi say. Trong lúc nhai trầu, để tẩy cổ trầu và xác trầu bám vào răng, người ta có thể dùng một nhúm nhỏ thuốc lào để chà răng.
Ăn trầu là tập tục truyền thống có từ lâu đời và phổ biến ở nhiều quốc gia châu Á và châu Đại Dương. Tại Việt Nam, tương truyền tục ăn trầu có từ thời Hùng Vương và gắn liền với câu chuyện cổ tích nổi tiếng: Trầu cau. Với người Việt, ăn trầu không đơn thuần chỉ là thói quen, tập tục mà còn là yếu tố cấu thành nên những giá trị văn hóa truyền thống. Trầu cau không chỉ là lễ vật khởi đầu trong các nghi lễ truyền thống như tang ma, cưới hỏi mà còn là biểu tượng của tình yêu đôi lứa, vợ chồng.

Hiện vật Văn hóa Trầu cau

Đối với tầng lớp bình dân, bộ dụng cụ này được tạo tác đơn giản bằng những chất liệu dễ kiếm như tre, gỗ, đồng, gốm. Ngược lại, với tầng lớp quý tộc, bộ đồ được làm bằng chất liệu quý, trang trí độc đáo, tinh xảo. Bình vôi trong ảnh được làm từ chất gốm men lục và trắng thời Lê sơ - Mạc, thế kỷ 15-16.
Bình vôi gốm men lam xám có từ thời Mạc, thế kỷ 16. Trong gia đình truyền thống, bình vôi được coi trọng và tôn kính như một vị thần nên được gọi là Ông bình vôi hay Ông vôi, tương tự như Ông Táo trong bếp.
Khi bình vôi đặc ruột hoặc lỡ bị sứt mẻ thì người ta không đem vứt bỏ mà cẩn thận treo xếp ở gốc đa đầu làng.
Bình vôi quai hình trâu
Bình vôi cũng trở thành những tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hóa Việt. Đây cũng là loại vật dụng duy nhất hiện còn đủ các niên đại khác nhau từ thời Lý - Trần tới nay. Bình vôi làm từ gốm men trắng thời Trần, thế kỷ 13-14.
Ngoài bộ đồ ăn trầu của tầng lớp quý tộc xưa, triển lãm còn trưng bày bộ dụng cụ ăn trầu của nhiều dân tộc như Tày, Chăm, Xơ Đăng...
Dụng cụ để cuộn lá trầu của dân tộc Tày.
Ốc nung vôi ăn trầu của dân tộc Xơ Đăng.
Ống vôi của dân tộc Xơ Đăng.
Túi dùng để trựng trầu, chìa khóa và đồ trang sức của dân tộc Lô Lô, Bảo Lạc, Cao Bằng.
Cối giã trầu của dân tộc Tày.
Không gian tiếp khách trong ngôi nhà Việt đồng bằng bắc bộ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 luôn có sẵn cơi trầu, điếu hút thuốc và bộ đồ trà.
Bình Minh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét