TTO - Chỉ riêng món bánh tét, tới chiều cuối năm bà con
mới bắt đầu gói và nấu để kịp cúng giao thừa khiến cho không khí tết
trở nên ấm cúng diệu kỳ.
Mỗi lần nghe gió bấc về xôn xao, ngoài đường mai vàng
chớm nụ là tôi lại nhớ đến tết quê. Chính nơi đây, vào những ngày giáp
tết, nhà nhà đều chuẩn bị làm bánh, nơi này quết bánh phồng, chỗ kia
tráng bánh thật vui vẻ sum vầy.
Gói bánh tét nếp cẩm nhân đậu xanh
|
Bánh tét nếp cẩm nhân đậu - thịt
|
Trong ký ức xa vời của tôi, mỗi lần tiết trời se se
lạnh là đầu trên xóm dưới đều hối hả đắp lò, bửa củi, chuẩn bị chuối,
nếp, thịt mỡ và những đồ nghề để làm bánh, trong đó bánh phồng và bánh
tét được coi là món bánh truyền thống của ngày tết phương Nam. Tưởng đâu
“nồi bánh tét” sẽ mãi mãi chìm trong nỗi nhớ, nhưng gần đây, mỗi lần
tết đến, phong trào gói bánh tét lại nổi lên rộn rã, nhất là tại các
đình chùa và khu nhà tập thể.
Để chuẩn bị cho nồi bánh tét, trước hết mẹ tôi phải đi
chọc lá chuối, chẻ lạt phơi khô. Kế đến là chọn nếp loại hảo hạng, thơm
ngon và dẻo hột cùng với các nguyên liệu dùng làm nhưn như đậu xanh,
chuối, dừa khô, thịt mỡ… Muốn cho đòn bánh no tròn, đều đặn, màu sắc đặc
trưng, xẻ ra thơm phức, vừa ngon vừa dẻo, ngoại tôi tốn rất nhiều công
phu từ khâu chọn nếp, xào nếp, nêm muối, trộn cơm dừa, xào nhưn cho tới
cách gói, cách quấn dây sao cho nhuần nhuyễn, đặc biệt là trong suốt quá
trình nấu phải giữ cho lửa cháy đều và luôn châm nước không được để cho
nồi bị cạn.
Lúc tôi còn bé nhỏ, nhà tôi năm nào cũng chuẩn bị một
nồi bánh tét thật to nên con cháu tụ hội về gói bánh thật đông đủ khiến
cho không khí cuối năm trở nên ấm cúng lạ thường. Mẹ tôi lúc nào cũng
tất bật giống như một “nhạc trưởng” chuyên lo xào nếp, ướp nhưn, còn các
chị thì chuẩn bị lá, lạt để gói. Vậy mà thấm thoát giờ đây họ đã trở
thành người muôn năm cũ.
Do nhu cầu kinh tế phát triển và sự giao lưu hội nhập,
nhiều bà con đã sáng tạo ra nhiều cách gói, nhiều loại nhưn để nâng cao
chất lượng chiếc bánh. Có nơi gói bằng nếp trắng, đậu trắng, có nhưn
hoặc không nhưn. Có nơi lại cầu kỳ gói bánh tét ba màu (màu nếp trắng,
màu lá dứa và lá cẩm). Còn nhưn đậu thì lại chọn thêm nào tôm khô, lạp
xưởng, giò heo bắc thảo, trứng, đậu phộng, nấm đông cô… cho thành thập
cẩm. Tại một số nơi còn có những nghệ nhân tài hoa biết phối trí màu vào
trong nếp và nhưn để khi cắt bánh ra chữ sẽ hiện lên thật ấn tượng.
Bánh gói xong được cho vào một cái nồi thật lớn rồi bắc
lên lò hoặc trên ba đầu ông táo, đổ nước xăm xắp nấu liên tục từ chiều
cho tới nửa đêm mới vớt ra treo lên một cây đà ngang cho ráo nước, đòn
nào cũng căng tỏa mùi nếp thơm quyến rũ. Gần đến giao thừa, cha tôi mới
gỡ dây lạt đặt lên bàn thờ mỗi đĩa hai bánh để chuẩn bị cúng giao thừa.
Bánh tét ngoài việc cúng ông bà còn được dùng để làm quà tết thầy, tết
bạn bè, cơ quan và hàng xóm.
Nếu như ở miền Bắc ngày tết phải có bánh chưng xanh thì
miền Nam không thể thiếu bánh tét. Đó là loại bánh truyền thống có từ
lâu đời mà tác giả Trịnh Hoài Đức đã ghi lại trong Gia Định thành thông chí:
“Ngày tết ông cha ta uống rượu nếp than và ăn bánh tét”. Vừa là loại
bánh cổ truyền, vừa biểu trưng cho tết phương Nam nên có người gọi bánh
tét là bánh “hoàng hậu”.
Vớt bánh tét trước giờ giao thừa
|
Có người lý giải bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho
âm tính là tinh hoa của đất. Bánh tét hình trụ, tròn, đầy đặn, tượng
trưng cho dương tính, nói lên sự mạnh mẽ, kiên cường. Một đòn bánh tét
tròn đầy bao giờ cũng hội đủ âm dương, ngũ hành, ngũ sắc. Thịt heo là
dương. Đậu, nếp, lá chuối gói bánh là âm. Gói xong cột lại thành cặp
tượng trưng cho sự tốt đẹp song toàn. Có thể nói ở đồng bằng sông Cửu
Long, trước đây thôn nữ nào cũng biết gói bánh tét. Ngày giỗ, ngày tết,
hội hè, đình đám bao giờ cũng có bánh tét và bánh ít. Bánh tét chưng
trên bàn thờ, bày nơi mâm cỗ và bàn khách. Bánh tét còn theo nông dân ra
đồng và nằm trong balô chiến sĩ. Ngày tết, bánh tét được coi như bánh
tổ, bánh lễ, họp mặt cùng với mâm ngũ quả và đĩa trầu cau, hiện diện ở
những nơi trang trọng và thành kính mỗi khi gia đình và đình làng có lễ
lộc.
Nhiều sử liệu đã ghi lúc Nguyễn Huệ kéo quân thần tốc
ra Thăng Long đại phá quân Thanh, đi đến đâu quân sĩ cũng được nhân dân
trao tặng bánh tét, một loại lương thực giữ được lâu ngày. Có thể nói đó
là một loại quân lương diệu kỳ góp phần cho cuộc chiến thắng.
Về nguồn gốc của bánh tét, có khá nhiều giả thuyết khác
nhau, nhưng về tên gọi có thể nói câu chuyện cảm động và mang tính nhân
văn sâu sắc nhất là chuyện một quân sĩ mời vua Quang Trung ăn bánh.
Chuyện kể rằng có một quân sĩ được người nhà gởi cho một chiếc bánh
giống như bánh tét hiện giờ. Trước khi ăn, anh ta trịnh trọng mời vua
Quang Trung thưởng thức, vua ăn thấy ngon liền hỏi đây là bánh gì, do ai
gởi đến... Anh lính trả lời:
- Dạ bánh này do vợ tôi tự gói gởi đến. Đây là thứ bánh
làm bằng nếp và nhưn đậu xanh, hiện chưa có tên. Mỗi lần ăn vào tôi cảm
thấy khỏe mạnh và thương nhớ vợ con vô vàn.
Vua Quang Trung nghe nói cảm động liền đặt tên cho đòn
bánh là bánh tết vì đoàn quân đang tiến về Thăng Long trong dịp tết. Để
tưởng nhớ chiến công hiển hách vào mùa xuân Kỷ Dậu, vua Quang Trung đã
ra lệnh cho bà con hằng năm nên gói bánh tết để đón mừng năm mới. Do lâu
ngày chữ “tết” đã đọc trại thành “tét”.
Từ nhỏ, tôi đã thích nhất là đêm ba mươi tết, trời lành
lạnh được ngồi canh lửa bên nồi bánh tét nghe nước sôi ùng ục, tiếng
củi nổ lép bép thật vui tai. Vui nhất là bạn bè kéo nhau đến quây quần
để chuyện trò, đùa giỡn hoặc đốt pháo chuột nghe đì đẹt bên ngọn lửa bập
bùng thật vô cùng ấm cúng. Chỉ có thế thôi mà sao tôi cứ nhớ, nhớ đến
quay quắt không sao chịu nổi!
Từ lâu lắm rồi tôi không còn được nghe tiếng quết bánh
phồng thình thịch hoặc ngồi bên nồi bánh tét để canh lửa. Tất cả những
thứ đó đã đi vào hồn, vào ký ức xa xăm đối với người dân Nam bộ. Trong
vài thập kỷ trở lại đây, do nhu cầu kinh tế xã hội phát triển, thời gian
nhàn rỗi cũng dần dần thu hẹp nên hầu hết bà con thích ra chợ chọn mua
những chiếc bánh gói sẵn để khỏi phải tốn công tốn sức.
Phần lớn công việc gói bánh chỉ dành cho người lớn
tuổi, họ gói bánh với tấm lòng hoài cổ để hướng về cội nguồn. Trẻ con
ngày nay hình như tỏ ra lạnh nhạt, vô tâm, không chút nặng lòng với
những gì thuộc về hoài niệm, về quá khứ.
Đáng mừng là trong những năm gần đây, nhiều công ty, xí
nghiệp đã kết hợp với ngành du lịch địa phương tổ chức các hội thi gói
bánh tét và các loại bánh dân gian nhằm bảo tồn và phát huy bánh dân
gian Nam bộ, đồng thời khơi dậy niềm tự hào và lòng say mê sáng tạo của
các nghệ nhân, từ đó tôn vinh giá trị văn hóa ẩm thực Việt Nam, tạo cơ
hội cho khách du lịch quốc tế và trong nước khám phá hương vị và giá trị
thẩm mỹ của từng món bánh, đặc biệt là bánh tét.
Tết nông thôn bây giờ thay đổi quá nhiều vì xã hội phát
triển theo cơ chế mở khiến cho các giá trị văn hóa được đánh giá và
sàng lọc lại, có cái còn cái mất. Việc gói bánh tét, bánh chưng hay làm
bánh phồng bánh tráng giờ đây không còn nguyên ý nghĩa nguyên sơ của nó.
Văn hóa tết bây giờ cũng giống như một dòng sông, nước
cũ cứ trôi trôi mãi để rồi đón nhận dòng nước mới và cái mới cái cũ chỉ
hòa hợp nhau trong chừng mực nào mà thôi. Cuộc sống ngày càng khẩn
trương, vội vã và chịu nhiều áp lực của công việc nên ít ai nghĩ đến nồi
bánh tét. Các giá trị cũ và mới có cái không còn phù hợp vì đa số phụ
nữ đều không còn thời giờ rỗi rảnh như ngày xưa để quan tâm đến nữ công
gia chánh.
Vậy mà không biết tại sao mỗi lần tết đến, mỗi lần nhìn
thấy nồi bánh tét trên ngọn lửa hồng, trong tôi lại bừng lên một tình
cảm thiết tha, một nỗi thèm - tiếc - nhớ và một sự rung động thầm kín về
hồn quê trăm năm!
HOÀI VŨ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét