(Dân trí) - Trên Núi Hang Chùa, thuộc xóm Á Đồng, xã Yên Trị, huyệnYên Thuỷ, tỉnh Hòa Bình, các nhà khảo cổ phát hiện dấu tích của nền “Văn hóa Hòa Bình”. Trên núi Hang Chùa còn mang nhiều điều huyền bí về căn hầm thời chiến và dòng sông ngầm không bao giờ cạn…
Nơi lưu giữ vết tích nền “Văn hóa Hòa Bình” và thời chiến
Đến xã Yên Trị trong một chuyến công tác ở tỉnh Hòa Bình, chúng tôi được anh Phó chủ tịch xã Yên Trị - Bùi Phi Diệp kể câu chuyện về núi Hang Chùa - một trong những di tích danh thắng Quốc gia. Trên núi Hang Chùa còn lưu giữ rất nhiều vết tích của nền “Văn hóa Hòa Bình” cùng vết tích chiến tranh.
Bàn cờ nơi cửa hang.
Sau lời ngỏ ý muốn lên núi Hang Chùa thăm thú, anh Diệp đồng ý dẫn chúng tôi đi và còn cho biết anh cũng chính là Trưởng ban quản lý di tích. Trước lúc đi, anh Diệp cận thận chuẩn bị hai chiếc đèn pin. Là Trưởng ban quản lý di tích, nên anh Diệp nắm khá rõ đường đi, nước bước trên khu di tích, vừa đi, anh vừa giới thiệu về những nét văn hóa còn lưu giữ nơi đây.
Phía chân núi là những bậc thang dẫn lên các hang động, trên núi có một ngôi chùa người dân thường gọi là Chùa Hang, xưa kia có tên là Thanh Lam Tự, còn núi Hang Chùa có tên là Văn Quang Động. Phía trước Chùa Hang là một bàn cờ bằng đá, theo như anh Diệp cho biết bàn cờ đá này đã có từ rất lâu đời, cũng chưa rõ nó có từ năm nào, nhưng các cụ cao niên trong làng kể là có từ thời Phong kiến.
Ngoài bàn cờ đá cổ, phía trên cửa chùa còn có một dòng chữ Hán khắc trên vách đá là “Lăng tiêu tiếu bích” nghĩa là: Ngọn núi biếc cao vút, sương phủ mờ ảo.. Chùa Hang được xây dựng trước đây rất lâu, được tu bổ vào thời Nguyễn, còn không rõ chùa được xây dựng năm nào. Trên vách núi còn có một số bài thơ và bài ký chữ Hán về Động Văn Quang, với đại ý ca ngợi vẻ đẹp nơi đây.
Trên vách đá còn lưu giữ rất nhiều bút tích thành văn hiếm hoi.
Bàn thờ bằng đá cũng có từ rất lâu đời và được chạm trỗ rất tinh xảo.
Ấn tượng nhất với chúng tôi có lẽ những vỏ ốc, vỏ sò hóa thạch xếp tầng tầng, lớp lớp lên nhau tạo thành một “quả đồi vỏ ốc” trong một hang động. Theo các nhà khảo cổ học thì đây là dấu vết khảo cổ học thuộc nền “Văn hoá Hoà Bình”. Vì hầu hết đây là các vỏ ốc, vỏ sò hóa thạch, đó là thức ăn của người xưa. Từ đời này sang đời khác họ bỏ vỏ ốc xếp lên thành từng mảng dày đặc.
Dẫn chúng tôi lại đền Cửa Đức Ông, anh Diệp chỉ tay vào một chiếc bàn thờ bằng đá giải thích bàn thờ đá này cũng có từ rất lâu, được chạm trổ hoa văn rất tinh xảo và vẫn còn rất nguyên vẹn. Đi tới một điểm khác, chúng tôi thắc mắc về việc tích lưu truyền của Chùa Hang, anh Diệp kể: “Các cụ kể lại rằng, ngày xưa một vị quan ở Hòa Bình đưa quân xuống phủ Nho Quan để chịu tội vì bị kiện. Lúc qua núi Hang Chùa thì trời tối, nên lệnh cho quân lính lên trên núi nghỉ ngơi. Sáng mai vị quan này thấy trong người khỏe khoắn lạ thường, nên khấn rằng, nếu đến phủ Nho Quan mà bình an vô sự thì sẽ về tạ ơn. Không ngờ vị quan này lại thắng kiện. Nên lúc về ông đã sai quân mua đồ đến dâng lễ và nói cho người dân biết nơi này rất thiêng nên lập một ngôi chùa”.
Một nhũ đá nằm trên nóc hang động với rất nhiều hình thú kỳ dị.
Nhũ đá trong hang nhô ra với các cạnh khác nhau như bờm của một con sư tử.
Lúc xây dựng ngôi chùa, người xưa vẫn muốn điểm tâm kiến trúc thành ngôi chùa với đầy đủ các hạng mục như công trình đứng ngoài trời để bảo vệ tượng pháp và di vật cổ, đồng thời cũng tạo thêm vẻ trang nghiêm, trầm mặc, mà sức mạnh và đường nét bố cục của kiến trúc tạo nên.
Ngoài những vết tích của nền “Văn hóa Hòa Bình”, núi Hang Chùa còn được biết đến là nơi lưu giữ vết tích thời chiến. Nơi đây trước kia là vùng núi hẻo lánh nên Hang Chùa được bộ đội đào hầm rộng thênh thang xuyên núi làm kho vũ khí. Sau khi kho vũ khí được chuyển đi, núi Hang Chùa được chọn làm kho bạc Nhà nước, chưa có một tài liệu nào ghi lại về việc này.
Dòng sông ngầm chảy qua núi chưa bao giờ cạn
Do chưa được tu bổ, nên đường vào khu hầm và các hang động khác khá khó khăn. Theo chân anh Diệp, chúng tôi men theo con đường mòn vào các khu hang động, bước vào khu hầm do bộ đội đào, khu hầm này khá rộng, thời tiết bên ngoài thì rất lạnh, nhưng vào đến hầm thì cảm giác ấm dần lên.
Đường đi vào con sông ngầm chưa được cải tạo nên đi lại rất khó khăn.
Kỳ lạ nhất là trong núi Hang Chùa có một dòng sông ngầm chảy qua, cũng chẳng ai biết con sông ngầm này có từ lúc nào, chỉ biết rằng chưa bao giờ người dân địa phương thấy cạn nước, nguồn nước chảy ra trong vắt, mùa hè thì mát lạnh, mùa đông thì rất ấm. Vào những mùa hạn hán, nắng nóng kéo dài, vùng đất Yên Thủy không có nước tưới cho đồng ruộng. Nhưng nguồn nước ngầm trong núi Hang Chùa vẫn chảy ào ào, người dân thường vào hang, bơm nước ra ngoài, bơm ngập cả đồng mà vẫn thấy nước trong hang đầy ắp. Ở một số cửa hàng còn có rất nhiều cá. Mỗi khi trời mưa to, nước trong hang ào ra ngoài, người dân cứ thế ra cửa hang dùng vợt bắt cá.
Vì là nguồn nước thiên nhiên, nên nhiều hộ gia đình sống xung quanh núi vẫn qua các hang động lấy nước về sinh hoạt, nước dùng pha chè thì thơm phức, không bao giờ bị bám bẩn, nấu cơm thì rất dẻo, chính vì vậy mà mỗi dịp lễ, tết người dân thường lấy nước ở đây về gói bánh. Người dân cũng truyền tai nhau các câu chuyện “thần thánh” ở núi Hang Chùa, nhưng hầu hết là để răn đe người không được phá phách di tích trên núi, còn việc bắt cá hay lấy nước thì họ vẫn làm thường xuyên, họ xem đó là lộc của ngọn núi thiêng nơi đây.
Nước ở dòng sông ngầm chảy trong núi Hang Chùa chưa bao giờ cạn.
Muốn vào các hang động phải dùng đèn pin soi, nhưng khi vào trong mới cảm nhận được vẻ đẹp của các hang động nơi đây, những nhũ đá nhấp nhô muôn hình vạn trạng. Thấy chúng tôi trầm trồ trước vẻ đẹp của các hang động, anh Diệp cho biết, nơi đây cũng đã được duyệt đề án để chuẩn bị trùng tu cho du khách tham quan. Nhưng vì còn nhiều vướng mắc nên chắc phải sang năm 2014 mới bắt đầu tiến hành.
Một bài ký chữ Hán trên vách đá có đoạn viết về vẻ đẹp của núi Hang Chùa và những hang động xung quanh. Theo bản dịch có nghĩa là: “Một ngọn núi biệt lập cao vút có ngàn đỉnh khác quây tụ sừng sững chấn giữ, nửa núi có bốn động, trên thông ra đón ánh mặt trời, dưới ngầm quanh co như ruột dê, nhũ đá rủ hình phượng, long, lân kì dị. Trong động có bệ đá làm nơi thờ Phật...”.
Vỏ sò, ốc hóa thạch xếp thành từng lớp.
Đường hầm được đào trong chiến tranh chạy xuyên lòng núi.
Vào thời kỳ Pháp thuộc, thấy được vẻ đẹp của núi Hang Chùa, nên thực dân Pháp định biến nơi này thành một khu nghỉ dưỡng, quy hoạch lại thành “Vịnh Hạ Long trên cạn” cho khách du lịch trong và ngoài nước đến thăm quan nghỉ dưỡng. Nhưng dự án trên chưa thể thực hiện được thì Pháp thất bại.
Cứ vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch hàng năm, người dân lại tổ chức lễ hội, bàn cờ đá cũng là nơi diễn ra các cuộc so tài. Họ truyền tụng lại cho con cháu về các tích của núi Hang Chùa và ngôi Chùa Hang. Trải qua hàng trăm năm, với biến động của thiên nhiên và của cả con người, nhưng những vết tích lịch sử nơi đây vẫn còn giữ nguyên giá trị. Trong ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn pin, chúng tôi cũng lần tìm được đường ra cửa hang. Để đi một vòng ngọn núi tham quan các hang cũng mất hơn một tiếng đồng hồ.
Thanh Thủy - Duy Tuyên
Dòng sông ngầm không bao giờ cạn
Để được mục sở thị về ngọn núi kỳ diệu này, chúng tôi tìm đến núi Chùa Hang, ở xóm Á Đồng, xã Yên Trị, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình.
Anh Bùi Phi Diệp, Phó Chủ tịch xã Yên Trị, Trưởng Ban quản lý núi Chùa Hang đã kể tường tận cho chúng tôi nghe những câu chuyện li kỳ về ngọn núi này.
Hiện ra trước mắt tôi lúc này là một hồ nước xanh ngắt, trong veo, đang bốc hơi với hàng nghìn nhũ thạch hoa đá ở trên nóc hang. Không giống như những con sông hay hồ khác, mặt nước trong này phẳng lặng như gương và có gì đó rất đặc biệt. Theo quan sát thì dòng nước dài đến hàng chục ki lô mét, kèm theo hơi khói bốc lên, khiến người ta có cảm giác như đang rơi vào cõi “bồng lai tiên cảnh”.
Anh Diệp cho biết: “Dòng sông này không biết có tự bao giờ, chỉ biết từ xa xưa, khi người dân quanh đây còn sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, năm đó trời nắng nóng, hạn hán không có nước tưới cây. Người dân đi làm đồng về thấy có dòng nước từ trong núi chảy ra liền múc để tưới cây. Sau đó, bà con nông dân được một mùa bội thu. Kể từ khi ấy, mọi người ai ai cũng đến dòng suối mát trong này để tắm, giặt, sinh hoạt, nhiều người còn lấy nước về để pha trà, nấu cơm... xem đó như nguồn nước trời ban, như lộc thánh từ ngọn núi đem đến.
Đây là ngọn núi nằm độc lập, bốn bề đều là nhà dân. Điều khiến chúng tôi ai nấy đều ngạc nhiên là vì sao bao lâu nay dòng sông này vẫn tràn đầy sự sống, cứ mãi chảy mà không bao giờ cạn.
Trước đây, thực dân Pháp dự định biến khu vực này thành vịnh Hạ Long trên cạn. Tuy nhiên, ý định này không thể thực hiện được, anh Diệp cho biết thêm.
Bàn cờ đá cổ và vết tích của nền văn hóa Hòa Bình
Vốn dĩ chùa có tên gọi là Chùa Hang vì nó gắn với câu chuyện về một vị quan thời bấy giờ. Theo lời kể, ngày xưa, một vị quan ở vùng đất này vì bị kiện nên đã đưa quân xuống phủ Nho Quan để kiện lại. Trên đường đi, vị quan này đã lên trên núi nghỉ ngơi. Sáng hôm sau thức dậy, vị quan thấy trong người khỏe mạnh lạ thường. Thấy thế, ông khấn rằng nếu đến phủ Nho Quan mà thắng kiện thì lúc trở về sẽ tạ ơn. Như lời khấn cầu, vị quan đã thắng kiện. Lúc về, ông đã sai quân mua đồ đến dâng lễ và nói cho người dân biết nơi này rất thiêng nên đã lập một ngôi chùa, lấy tên là Chùa Hang".
Từ đó cho đến nay, hằng ngày có rất nhiều người dân từ khắp nơi về đây cầu khấn. Cứ vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch hằng năm, người dân lại tổ chức lễ hội để truyền tụng lại cho con cháu về các tích của núi và Chùa Hang.
Phía trước cửa chùa là một bàn thờ bằng đá, rộng khoảng 1m, dài 1,2m. Anh Diệp nói, không biết chiếc bàn cờ bằng đá này có tự bao giờ, chỉ biết các vua quan thời phong kiến ngày xưa thường ghé qua đây để cùng nhau chơi cờ, bàn chuyện thế sự.
Nguyên sơ trên vách núi là một tấm bia khắc những dòng chữ Hán, bàn thờ bằng đá được chạm khắc tinh xảo. Những dòng chữ khắc trên vách núi chính là những lời ngợi ca của các vua quan về vẻ đẹp hoang sơ ở nơi đây.
Chỉ tay về phía bức tường đất với nhiều vỏ ốc, sò..., anh Diệp cho biết: Đây chính là những vết tích về nền văn hóa Hòa Bình. Bức tường cao khoảng 5m, dày và xếp thành từng lớp ốc xen lẫn đất đá.
"Lúc bấy giờ, người xưa đã sống trên núi này và vào trong hang bắt ốc, sò để ăn. Qua nhiều năm tháng, lớp này chồng lên lớp khác đã tạo nên những bức tường dày với nhiều vỏ ốc, vỏ sò. Đã có rất nhiều nhà khảo cổ học về đây nghiên cứu và kết luận đây là những vết tích từ nền văn hóa Hòa Bình để lại”, anh Diệp nói thêm.
Không những thế, tại khu di tích núi Chùa Hang còn xuất hiện đường hầm dài hàng chục ki lô mét. Đây là đường hầm dùng để cất giữ vũ khí vào những năm kháng chiến. Khi đó, vũ khí được đưa về và chất lên thành hai dãy chạy thẳng với đường hầm. Tất cả số vũ khí đều được cất giữ để chuyển đến chiến trường ở Camphuchia, đường 9 Nam Lào và chiến trường miền Nam.
Đến năm 1978, người ta mới chuyển hết số vũ khí đi. Mãi sau này, đường hầm mới được dùng để làm kho bạc Nhà nước.
“Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có tài liệu chính xác nói về kho bạc Nhà nước trong lòng núi. Hiện chúng tôi đang cố gắng thu thập tài liệu và tiến hành tu bổ khu đường hầm thành di tích cách mạng, anh Diệp chia sẻ.
Bí ẩn dòng sông ngầm không bao giờ cạn ở Hòa Bình
Trong núi Chùa Hang ở tỉnh Hòa Bình, có một dòng sông ngầm trong mát, chảy mãi không bao giờ cạn. Nơi đây còn có nhiều điều bí ẩn về chiếc bàn cờ cổ, kho bạc Nhà nước và những vết tích từ nền văn hóa Hòa Bình.
Để được mục sở thị về ngọn núi kỳ diệu này, chúng tôi tìm đến núi Chùa Hang, ở xóm Á Đồng, xã Yên Trị, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình.
Anh Bùi Phi Diệp, Phó Chủ tịch xã Yên Trị, Trưởng Ban quản lý núi Chùa Hang đã kể tường tận cho chúng tôi nghe những câu chuyện li kỳ về ngọn núi này.
Cổng Chùa Hang từ phía dưới chân núi
Sau gần 1 giờ leo quanh sườn núi, cuối cùng chúng tôi cũng tới được cửa hang số 12. Đây là cửa hang dễ vào nhất trong tổng số 18 cửa dẫn tới dòng sông ngầm. Từ cửa hang đi sâu vào trong là căn hầm dài hàng chục ki lô mét, men theo đó hơn 2 ki lô mét nữa, anh Diệp bắt đầu đưa chúng tôi đi vào một ngách nhỏ, nói là ngách cho sang chứ thực chất nó chỉ nhỏ đến mức đủ lọt một người chui vào, chui ra.Hiện ra trước mắt tôi lúc này là một hồ nước xanh ngắt, trong veo, đang bốc hơi với hàng nghìn nhũ thạch hoa đá ở trên nóc hang. Không giống như những con sông hay hồ khác, mặt nước trong này phẳng lặng như gương và có gì đó rất đặc biệt. Theo quan sát thì dòng nước dài đến hàng chục ki lô mét, kèm theo hơi khói bốc lên, khiến người ta có cảm giác như đang rơi vào cõi “bồng lai tiên cảnh”.
Anh Diệp cho biết: “Dòng sông này không biết có tự bao giờ, chỉ biết từ xa xưa, khi người dân quanh đây còn sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, năm đó trời nắng nóng, hạn hán không có nước tưới cây. Người dân đi làm đồng về thấy có dòng nước từ trong núi chảy ra liền múc để tưới cây. Sau đó, bà con nông dân được một mùa bội thu. Kể từ khi ấy, mọi người ai ai cũng đến dòng suối mát trong này để tắm, giặt, sinh hoạt, nhiều người còn lấy nước về để pha trà, nấu cơm... xem đó như nguồn nước trời ban, như lộc thánh từ ngọn núi đem đến.
Đây là ngọn núi nằm độc lập, bốn bề đều là nhà dân. Điều khiến chúng tôi ai nấy đều ngạc nhiên là vì sao bao lâu nay dòng sông này vẫn tràn đầy sự sống, cứ mãi chảy mà không bao giờ cạn.
Dòng sông ngầm chảy mãi không bao giờ cạn.
Anh Diệp nói, dòng nước trong lòng núi xuất hiện từ khá lâu, thế nhưng chưa bao giờ cạn, mùa mưa thì nước dâng lên cao, mùa hạn thì vẫn đầy nước. Lúc nào nước từ trong hang cũng chảy ra không ngừng. Không chỉ thế, dưới lòng sông ngầm còn có rất nhiều cá, nhưng không ai dám bắt để ăn, vì sợ động vào thánh thần sẽ bị trừng trị, người dân sẽ mất đi nguồn nước tưới cây và sinh hoạt. Thời gian cứ thế trôi đi, lời đồn thổi của người dân càng khiến dòng sông ngầm trở nên bí ẩn.Trước đây, thực dân Pháp dự định biến khu vực này thành vịnh Hạ Long trên cạn. Tuy nhiên, ý định này không thể thực hiện được, anh Diệp cho biết thêm.
Bàn cờ đá cổ và vết tích của nền văn hóa Hòa Bình
Vốn dĩ chùa có tên gọi là Chùa Hang vì nó gắn với câu chuyện về một vị quan thời bấy giờ. Theo lời kể, ngày xưa, một vị quan ở vùng đất này vì bị kiện nên đã đưa quân xuống phủ Nho Quan để kiện lại. Trên đường đi, vị quan này đã lên trên núi nghỉ ngơi. Sáng hôm sau thức dậy, vị quan thấy trong người khỏe mạnh lạ thường. Thấy thế, ông khấn rằng nếu đến phủ Nho Quan mà thắng kiện thì lúc trở về sẽ tạ ơn. Như lời khấn cầu, vị quan đã thắng kiện. Lúc về, ông đã sai quân mua đồ đến dâng lễ và nói cho người dân biết nơi này rất thiêng nên đã lập một ngôi chùa, lấy tên là Chùa Hang".
Bức tường ốc là những vết tích từ nền văn hóa Hòa Bình
Từ đó cho đến nay, hằng ngày có rất nhiều người dân từ khắp nơi về đây cầu khấn. Cứ vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch hằng năm, người dân lại tổ chức lễ hội để truyền tụng lại cho con cháu về các tích của núi và Chùa Hang.
Phía trước cửa chùa là một bàn thờ bằng đá, rộng khoảng 1m, dài 1,2m. Anh Diệp nói, không biết chiếc bàn cờ bằng đá này có tự bao giờ, chỉ biết các vua quan thời phong kiến ngày xưa thường ghé qua đây để cùng nhau chơi cờ, bàn chuyện thế sự.
Bàn cờ đá cổ
Nguyên sơ trên vách núi là một tấm bia khắc những dòng chữ Hán, bàn thờ bằng đá được chạm khắc tinh xảo. Những dòng chữ khắc trên vách núi chính là những lời ngợi ca của các vua quan về vẻ đẹp hoang sơ ở nơi đây.
Chỉ tay về phía bức tường đất với nhiều vỏ ốc, sò..., anh Diệp cho biết: Đây chính là những vết tích về nền văn hóa Hòa Bình. Bức tường cao khoảng 5m, dày và xếp thành từng lớp ốc xen lẫn đất đá.
"Lúc bấy giờ, người xưa đã sống trên núi này và vào trong hang bắt ốc, sò để ăn. Qua nhiều năm tháng, lớp này chồng lên lớp khác đã tạo nên những bức tường dày với nhiều vỏ ốc, vỏ sò. Đã có rất nhiều nhà khảo cổ học về đây nghiên cứu và kết luận đây là những vết tích từ nền văn hóa Hòa Bình để lại”, anh Diệp nói thêm.
Đường hầm – nơi cất giữ vũ khí và là kho bạc Nhà nước trong thời chiến
Không những thế, tại khu di tích núi Chùa Hang còn xuất hiện đường hầm dài hàng chục ki lô mét. Đây là đường hầm dùng để cất giữ vũ khí vào những năm kháng chiến. Khi đó, vũ khí được đưa về và chất lên thành hai dãy chạy thẳng với đường hầm. Tất cả số vũ khí đều được cất giữ để chuyển đến chiến trường ở Camphuchia, đường 9 Nam Lào và chiến trường miền Nam.
Đến năm 1978, người ta mới chuyển hết số vũ khí đi. Mãi sau này, đường hầm mới được dùng để làm kho bạc Nhà nước.
“Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có tài liệu chính xác nói về kho bạc Nhà nước trong lòng núi. Hiện chúng tôi đang cố gắng thu thập tài liệu và tiến hành tu bổ khu đường hầm thành di tích cách mạng, anh Diệp chia sẻ.
Theo Gia Huy (Khampha.vn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét