Chùa Sùng Bảo thuộc xã Xuân Dục (Mỹ Hào - Hưng Yên) vốn rất nổi tiếng với truyền thuyết tượng đất hóa vàng.
Đây còn là ngôi chùa có một cái giếng thiêng từng bị tướng giặc Cao Biền trấn yểm hòng chặn long mạch của nước ta.
Bí ẩn một truyền thuyết
Thầy Thích Tuệ Hạnh – Trụ trì chùa Sùng Bảo cho biết một truyền thuyết nổi tiếng phố Hiến liên quan đến bức tượng vàng huyền bí như sau. Ngày xưa, các mục đồng đi chăn trâu ở Xuân Dục thường dùng đất ở bãi chăn thả trâu để nhào nặn thành các pho tượng. Họ dùng lá chuối khô hoặc rơm rạ dựng thành những túp lều nhỏ để chơi đồ hàng.
Tượng vàng theo tương truyền ở chùa Sùng Bảo. |
Vào một đêm mưa gió, sấm sét vang rền trời, cả một vùng đất rộng lớn đều kinh hãi. Hôm sau, khi trời quang đãng, người dân lại dắt trâu bò ra bãi thì bất ngờ phát hiện pho tượng nặn bằng đất của các mục đồng đã hóa thành vàng ròng.
Thấy sự lạ, người dân đã thỉnh mời các cao tăng thời đó đặt tên cho bức tượng là Đức Phật Bà Đồng Quân và mang vào chùa Sùng Bảo để thờ. Từ đó đến nay, những câu chuyện nửa hư nửa thực liên quan đến bức tượng này cứ thế lan xa. Có chuyện kể việc vua Đinh Tiên Hoàng đánh giặc ngang qua chùa vào thắp hương cầu khấn. Phật Bà Đồng Quân đã phù hộ cho vua đại thắng dù lúc đó, lực lượng của vua Đinh Tiên Hoàng so với giặc như trứng chọi đá.
Người dân địa phương lại có tục thờ Phật Bà Đồng Quân để phù trợ mùa màng tốt tươi. Thầy Thích Tuệ Hạnh cho hay, ngày xưa khi mương máng tưới tiêu nội đồng chưa có, hạn hán liên miên, người dân đã lập đàn cầu mưa và rước tượng Phật Bà Đồng Quân từ chùa Sùng Bảo đi xung quanh đồng ruộng để cầu mưa. Các cao niên xác nhận, bao giờ cũng thế khi rước tượng xong là trời đổ mưa cho ruộng đồng ngập nước. Thế nhưng, số phận tượng vàng Phật Bà Đồng Quân cũng lắm gian truân. Theo người dân, dăm lần bảy lượt tượng vàng bị kẻ gian đánh cắp.
Cao Biền bất lực trấn yểm giếng long mạch
Các cao niên cho hay, ở thôn Xuân Bản sát chùa Sùng Bảo có chiếc giếng cổ hàng nghìn năm tuổi. Chiếc giếng hiện nay vẫn còn khá nguyên vẹn và là nguồn nước cho cả làng sinh hoạt. Điều kỳ lạ là chiếc giếng cổ này lúc nào nước cũng trong mát và không bao giờ cạn.
Tướng giặc phương Bắc Cao Biền – vốn nổi danh với những bùa chú trấn yểm, trong lần đi xem long mạch các vùng giáp thành Đại La mới phát hiện một mạch phát vương có tia năng lượng rất mạnh. Đó chính là chiếc giếng cổ của thôn Xuân Bản. Sau rất nhiều ngày tính toán để triệt hạ long mạch của giếng nhưng đều bị thất bại, cứ mỗi lần Cao Biền vứt bùa xuống giếng thì đều bị nguồn nước sủi tăm cuốn trôi bùa ngải. Vì thế, người dân địa phương thường gọi giếng cổ này là giếng Sủi.
Trao đổi với chúng tôi, đại diện chính quyền xã Xuân Dục, ông Phan Bính Tân - Bí thư Đảng ủy xã cho hay: “Nước trong giếng không bao giờ cạn là sự thật. Còn việc nước sủi bọt nhiều là một hiện tượng. Khi hiện tượng chưa giải thích được thì người ta thường hay thần thánh hóa. Sau này, khi chúng tôi mời chuyên gia về khảo sát thì phát hiện khí metan dưới đó đã tạo ra hiện tượng sủi bọt”.
Cây đề của nhà ái quốc
Người quản lý khu di tích cách mạng Nguyễn Thiện Thuật ở xã Xuân Dục cho biết, liên quan đến chùa Sùng Bảo còn có cây đề cổ thụ của nhà ái quốc Nguyễn Thiện Thuật - lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy nổi tiếng. Cây đề đóng vai trò là “vọng gác” để nghĩa quân của Nguyễn Thiện Thuật theo dõi động tĩnh cũng như từng đường đi nước bước của kẻ thù.
Theo bà con địa phương, cây đề cổ thụ hiện nay đã được công nhận là cây di sản. Cây đề gắn liền với chùa Sùng Bảo, với người anh hùng Nguyễn Thiện Thuật nên ngoài ý nghĩa lịch sử cần gìn giữ và bảo vệ, nó còn mang ý nghĩa tâm linh mà cả làng đều tin rằng có thần linh ngự trị. Suốt những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bao nhiêu lần làng bị pháo cày đạn xới, nhưng cây đề vẫn bình yên đứng đó, không một cành một lá nào bị rơi do bom đạn cả. Điều đó khiến dân làng tin rằng, cây đề là nơi quy tụ của thần linh và cả sự bảo vệ của nhà ái quốc Nguyễn Thiện Thuật nữa.
Hiện nay, tại khu tưởng niệm danh tướng Nguyễn Thiện Thuật, hiện vật liên quan đến vị danh tướng này cũng được trưng bày đầy đủ để khách tham quan có thể hiểu rõ về sự nghiệp và cuộc đời hoạt động của người anh hùng. Theo người quản lí di tích, vào năm 2005 chính quyền tỉnh Hưng Yên và các cơ quan Trung ương đã sang tận tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc đưa thi hài của cụ Nguyễn Thiện Thuật về truy điệu.
Theo lời kể của người địa phương, thi hài của danh tướng Nguyễn Thiện Thuật khi đưa về Hưng Yên vẫn còn nguyên vẹn. Có lẽ, người Trung Quốc đã ướp thi hài cụ bằng một loại dược liệu quý giá nào đó.
“Cùng với cây đa Tân Trào, cây đào Tô Hiệu thì cây đề Nguyễn Thiện Thuật cũng được xếp là 1 trong 3 cây cổ thụ được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia cần được bảo tồn. Chính quyền địa phương luôn quan tâm đến di tích quý giá này cùng với quần thể chùa Sùng Bảo”, ông Phan Bính Tân – Bí thư Đảng ủy xã Xuân Dục cho biết.
Theo An ninh thủ đô
(TNO) Pho tượng Phật bà Đồng Quân trong chùa Sùng Bảo hơn 1.500 năm là niềm tự hào của người dân xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, Hưng Yên với truyền thuyết 'tượng đất hóa vàng'.
Xuân Dục là quê hương của nhà yêu nước Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy vào cuối thế kỷ XIX. Trên mảnh đất này, cây cổ thụ, giếng nước, ngôi chùa nào cũng chứa đựng những truyền thuyết nửa hư nửa thực. Vì vậy người dân địa phương cho rằng những ai đến Xuân Dục mà không khám phá bao câu chuyện huyền diệu ẩn trong những trầm tích rêu phong coi như chưa đặt chân đến bao giờ.
“Kiệu bay” trong ngày rước tượng
“Các cụ bao đời truyền lại, ngày xửa ngày xưa, trẻ con chăn trâu ở Xuân Dục thường nặn đất thành các pho tượng, rồi dùng rơm rạ dựng thành những túp lều nhỏ để chơi đồ hàng. Sau một đêm giông tố, sấm sét vang trời, người dân ra đồng phát hiện pho tượng nặn bằng đất của các mục đồng đã hóa thành vàng ròng. Thấy sự lạ, dân làng đã thỉnh mời các vị sư đến đặt tên cho bức tượng là Đức Phật bà Đồng Quân và mang vào thờ trong chùa Sùng Bảo ở thôn Xuân Nhân”, ông Trịnh Quang Tiễu, 82 tuổi, ngồi dưới gốc cây đề cổ thụ cạnh chùa kể cho chúng tôi nghe về truyền thuyết “tượng đất hóa vàng”.
Ông Tiễu cho biết truyền thuyết này nổi tiếng khắp một vùng xứ Đông, phố Hiến, người dân nơi đây từ già tới trẻ đều truyền nhau để giữ gìn. Trong chùa Sùng Bảo, tất cả các pho tượng đều sơn son thếp vàng, tượng Đức Phật bà Đồng Quân đặt trong long đình thờ ở bên phải hậu cung cùng với tượng rồng bằng gỗ gọi là Long Vương. Ông Tiễu kể Đức Phật bà Đồng Quân rất linh thiêng nên dân làng không ai dám tự tiện mở long đình ra xem, sợ mạo phạm. Theo tập tục của làng, chỉ có người có chức sắc mới được mở ra chiêm bái, tắm tượng khi vào lễ hội.
Ngày lễ hội vào rằm tháng 2 âm lịch, dân làng sẽ rước tượng Phật bà Đồng Quân từ chùa Sùng Bảo qua các làng ra tới cánh đồng Đồng Quân, nơi được cho là “tượng đất hóa vàng”. Là người chủ tế trong các lễ hội trước đây, ông Tiễu cho biết tục rước tượng Phật bà Đồng Quân gọi là lễ đảo võ, thường tổ chức vào những năm đại hạn để cầu mưa.
“Rước cùng Đức Phật bà Đồng Quân còn có tượng vua Long Vương, thường rước xong là trời đổ mưa. Điều này càng khiến cho sự tích về Đức Phật bà Đồng Quân trở nên linh thiêng, màu nhiệm”, ông Tiễu nói và chia sẻ về chuyện “kiệu bay” khi rước tượng.
Vì tin Đức Phật bà Đồng Quân chở che, phù trợ cho dân làng nên trong ngày lễ hội có tục “xin khước”. Trong lúc rước tượng, mọi người đua nhau chui vào dưới gầm để mong nhận được sự may mắn, sức khỏe khiến cho kiệu rước chao đảo, xô về phía trước nhưng tượng không hề bị đổ. Ông Tiễu cho biết để “kiệu bay” nhưng lễ hội vẫn an toàn, trật tự thì một đội thanh niên trai tráng đi theo bảo vệ. Lễ hội hiện 5 năm mới tổ chức một lần, thu hút rất đông người dân và du khách thập phương tham dự.
Theo sư thầy Thích Tuệ Hạnh, là trụ trì chùa Sùng Bảo, pho tượng vàng gắn với truyền thuyết đã bị lấy cắp trong những năm chiến tranh. “Tượng Đức Phật bà Đồng Quân giờ chỉ còn là tượng đất, đài sen làm bằng gỗ thôi”, thầy Thích Tuệ Hạnh cho biết. Tuy nhiên, ông Tiễu cho rằng thực chất pho tượng không bị lấy trộm mà bị đánh tráo.
Ông Tiễu kể vào thời kỳ chiến đấu chống Pháp, các cụ trong làng đã phải chuyển tượng đến một chùa ở vùng Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, rồi một chùa khác ở Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Khi chuyển lại về chùa, các cụ thấy tượng vẫn sơn son thếp vàng nhưng mũi không bị sứt một miếng như tượng vàng trước đây nên phát hiện ra đã bị đánh tráo, đi hỏi nhưng không được đành chấp nhận thờ.
“Dù không còn tượng vàng nhưng trong lòng dân làng chúng tôi vẫn tin vào Đức Phật bà Đồng Quân nhiệm màu, linh thiêng, giúp mọi người tu nhân tích đức, làm nhiều việc thiện”, ông Tiễu bày tỏ và cho biết hiện hơn 250 câu kệ về sự tích “tượng đất hóa vàng” vẫn được nhân dân truyền tụng, chép thành sách giữ cho thế hệ sau.
Giếng cổ khiến tướng Cao Biền bất lực
Cách chùa Sùng Bảo không xa là giếng cổ trước cửa đình làng Xuân Bản. Người dân xã Xuân Dục đặt tên là giếng Sủi bởi nước giếng luôn sủi bọt quanh năm. Theo cụ Tiễu, nước giếng luôn trong xanh, không bao giờ cạn, người dân địa phương không ai dám xả rác thải, chất bẩn xuống. Vào đầu năm mới, mọi người thường ra đình làng khấn bái trước khi xin nước gánh về nhà với hi vọng mọi việc may mắn, tốt lành.
Qua tìm hiểu, người dân Xuân Dục lưu truyền chuyện giếng làng Xuân Bản là đầu con rồng luôn phun châu nhả ngọc, còn bụng rồng ở làng Xuân Nhân và đuôi rồng là làng Xuân Đào. Giếng nước hàng nghìn năm tuổi này từng khiến tướng giặc phương Bắc là Cao Biền thất kinh, bất lực khi đến đây làm bùa chú trấn yểm. “Chuyện kể rằng trong lần đi xem long mạch các vùng giáp thành Đại La, ông ta phát hiện một mạch phát vương có tia năng lượng rất mạnh từ giếng Sủi. Sau rất nhiều ngày tính toán để triệt hạ long mạch của giếng nhưng đều bị thất bại, cứ mỗi lần Cao Biền vứt bùa xuống giếng thì đều bị nguồn nước sủi tăm cuốn trôi bùa chú, đành bất lực bỏ về”, ông Tiễu kể lại.
Do giếng sủi bọt tăm nhiều như nồi nước sôi nên người dân trong làng đã từng úp cối đá xuống để bớt sủi nhưng vẫn không ăn thua. Trong lần nạo vét giếng, mọi người đưa bùn đất lên bờ thấy khói bốc nghi ngút, đặt lá cây tươi vào liền bốc cháy. Khi chuyên gia về khảo sát thì phát hiện khí metan dưới giếng đã tạo ra hiện tượng sủi bọt.
Cạnh chùa Sùng Bảo là khu tưởng niệm nhà yêu nước Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy với cây đề cổ thụ từng là vọng gác tiền tiêu của nghĩa quân Bãi Sậy năm xưa. Dưới gốc cây đề này có một miếu thờ người phụ nữ được gắn với lời nguyền người dân 2 làng Xuân Đào và Xuân Nhân không lấy được nhau.
Theo câu chuyện lưu truyền trong nhân gian, người phụ nữ ở làng Xuân Nhân lấy chồng làng Xuân Đào, bị gia đình nhà chồng cay nghiệt, đày đọa khiến bà vô cùng uất ức. Trong một lần đi gánh nước, bà ngồi dưới gốc cây đề khóc than thân trách phận và nói lời nguyền: “Nếu người dân 2 làng Xuân Đào và Xuân Nhân lấy nhau thì chết 1 đời cha, 3 đời con. Khi nào nối được con đường từ Xuân Đào ra tới gốc đề thì mới lấy được nhau”. Nói lời nguyền xong, bà khuất núi, khi quan huyện tới nơi thì mối đã xông thành đống lớn. Người dân liền lập miếu thờ, khắc 4 chữ Hán: “Chạt chạt quyết linh”, nghĩa là miếu thiêng.
Ông Trịnh Quang Tiễu chia sẻ người phụ nữ này cùng họ với ông. Kể từ khi lời nguyền đó lan truyền, người dân 2 làng không ai dám lấy nhau. “Cách đây khoảng chục năm, người dân đắp đường nối Xuân Đào ra cây đề và làm lễ giải lời nguyền thì mới có các bạn trẻ ở 2 thôn lấy nhau”, cụ Tiễu kể.
|
Bài, ảnh: Vũ Ngọc Khánh