Khăn Piêu của dân tộc Thái
Piêu là loại khăn đội đầu truyền thống của phụ nữ người Thái, phổ biến nhất là người Thái Đen vùng Tây Bắc. Theo Từ điển hiện vật văn hóa các dân tộc Việt Nam, khăn này thường được các cô gái Thái tự may dệt thủ công từ vải sợi bông, có chiều rộng là một khổ vải, dài hơn sải tay, màu đen hoặc chàm, hai đầu thêu hoa văn gọi là nả piêu (mặt piêu).
![]() |
Khăn Piêu của người Thái Đen ở Yên Châu (Sơn La).
|
Nả piêu được viền bằng vải đỏ và đính các cút piêu hình tròn cuộn bằng các sợi chỉ màu. Hoa văn nả piêu thêu bằng sợi tơ tằm hoặc chỉ màu. Các họa tiết thường thấy gồm: hình răng cưa, quả núi, đường song song, quả trám, hình cây cỏ, côn trùng... Nả piêu của người Thái Đen ở vùng Yên Châu (Sơn La) gồm một lớp hoa văn dày đặc, phủ kín mặt vải. Ngược lại, ở những vùng khác, nả piêu thường có bố cục thoáng, gồm các đường thêu thanh mảnh.
"Người Thái tự hào khi đội một chiếc khăn piêu thêu đẹp. Từ bé gái ở tuổi tới trường cho đến các bà cụ già đều có thể đội piêu. Những dịp đi hội, đi chơi, xuống chợ, họ đội những chiếc piêu mới. Khi đội, một đầu khăn (nả piêu) phủ lên đỉnh đầu rồi trải trùm xuống trán, đầu kia buông thõng ra sau, có khi xuống đến ngang lưng... Piêu là vật làm tin của các đôi trai gái, quà của cô gái biếu gia đình nhà chồng khi về làm dâu. Piêu còn được sử dụng làm tài sản chia cho người quá cố khi về thế giới bên kia", Từ điển hiện vật văn hóa các dân tộc Việt Nam nêu giá trị, ý nghĩa của trang phục này với người Thái.
Năm 1956, nhạc sĩ người Hà Nội - Doãn Nho - tác giả của những ca khúc nổi tiếng như: Người con gái sông La, Năm anh em trên một chiếc xe tăng... đã lấy cảm hứng từ chiếc khăn đặc trưng của người dân tộc Thái, sáng tác ca khúc cùng tên và sau này được ca sĩ Tùng Dương thể hiện thành công.
Áo đính những quả len đỏ là đặc trưng trang phục của dân tộc Dao đỏ
Chiếc áo truyền thống của người Dao đỏ dài gần chấm đất, xẻ ngực, không có khuy cài, xẻ tà đến tận ngang hông, có tay dài, may bằng vải sợi bông nhuộm chàm. Thắt dây lưng là một phần không thể thiếu của chiếc áo. Khi mặc, người phụ nữ sẽ để vạt trái áp ra ngoài vạt phải và thắt dây lưng ra phía ngoài.
![]() |
Áo của người Dao đỏ được trang trí bằng cách thêu chỉ màu và ghép vải. Dọc theo mép cổ áo thêu hình dấu chân mèo, hình chữ thập... đính những hạt cườm và nổi bật lên là các quả len đỏ.
Họa tiết trang trí ở tay áo là hình hoa lá xen với những mảnh vải ghép có màu đỏ hoặc trắng. Phần lưng áo thêu mảng hoa văn hình vuông với hình chìa khóa ở giữa. Đuôi áo thêu những hình cây thông với các đường diềm bao quanh.
Áo do chính phụ nữ dân tộc Dao tự may, thêu vào lúc rảnh rỗi. Bởi cầu kỳ trong họa tiết, trang trí nên có khi cả năm họ mới hoàn thành được một chiếc.
Chiếc váy của người phụ nữ H'Mông

Chiếc váy xòe xếp ly là bộ phận y phục quan trọng của nữ giới dân tộc H'Mông. Tùy từng nhóm như H'Mông đỏ, H'Mông Hoa, H'Mông đen, H'Mông trắng, hoa văn họa tiết trang trí trên váy khác nhau.
![]() |
Theo Từ điển hiện vật văn hóa các dân tộc Việt Nam, loại váy xếp ly của người H'Mông được may bằng vải lanh nhuộm chàm. Váy được ghép từ các mảnh vải với kích cỡ, họa tiết khác nhau, để làm cạp, thân trên, thân dưới, chân váy.
Chiếc váy của người H'Mông được đánh giá là cầu kỳ nhất trong họa tiết thêu trang trí. Hoa văn trên váy chủ yếu là chấm tròn xen lẫn đường kẻ thẳng, hoặc hình xoắn ốc xen lẫn hình hoa lá; hình vết chân trâu, chó nằm ngủ, hay đường sọc dọc và hình chữ nhật tạo bằng kỹ thuật ghép vải... Các hoa văn họa tiết này đều ẩn chứa ý nghĩa là sự gắn kết giữa đời sống con người với thiên nhiên.
Người H'Mông đánh giá tài năng, vẻ đẹp của người phụ nữ qua khả năng thêu, dệt và bộ trang phục. Vì vậy, trên những rẻo đường vùng cao, bạn không khó bắt gặp hình ảnh người phụ nữ H'Mông ngồi trước cửa nhà, trên mỏm đá, cần mẫn may thêu - công việc gắn bó mật thiết suốt cuộc đời của họ.
Váy của người Mường dạng hình ống, dài từ nách đến gót chân
Theo Từ điển hiện vật văn hóa các dân tộc Việt Nam, chiếc váy truyền thống của người Mường có dạng hình ống, dài từ nách đến gót chân, được gọi là wải.
![]() |
Từ chân váy đến ngang eo là chất liệu vải bông nhuộm đen, cạp váy dệt bằng sợi tơ tằm với nhiều hoa văn màu sắc. Họa tiết trên cạp váy được chia theo 3 phần, phần sát nách là hình quả trám, ngôi sao; phần giữa là hình con rồng, công, cá, rùa, chim, nhện...; phần dưới cùng dệt những sọc dọc nhiều màu sắc.
Váy này được phụ nữ người Mường sử dụng hàng ngày, lồng đè lên chiếc yếm bên trong và khoác thêm bên ngoài chiếc áo trắng dài tay thân ngắn. Khi mặc, váy được lồng vào thân người, phần còn rộng được quấn sang một bên rồi giắt vào cạp váy. Phụ nữ Mường bẻ một phần cạp váy cho hoa văn lộ ra bên ngoài và dùng thắt lưng may bằng vải bông hoặc vải tơ tằm màu xanh, quấn ngang lưng váy.
Trước kia, theo quan niệm của người người Mường, chỉ con gái gia đình quyền quý mới được mặc váy có cạp dệt hình công, phượng, rồng. Ngày nay, không còn sự phân biệt này và cạp váy cũng được thêu dệt đơn giản hơn, thậm chí nhiều người không dệt phần cạp nữa mà sử dụng tấm vải phin hoa tách rời để thay thế.
Sường xám là trang phục của người Hoa
Sường xám (hay sườn xám) là loại áo dài nữ, may theo kiểu xẻ tà, chiết eo, hò áo có một khuy vải hình hoa cúc và ở nách bên phải có 6 khuy bằng vải, không có ống tay hoặc ống tay ngắn, cổ áo đứng, cao khoảng 4cm.
![]() |
Có 2 loại sường xám là áo dài quá mông, tà xẻ cao đến ngang hông và loại dài trùm đến gót chân, xẻ tà một bên trái tới quá đầu gối. Áo may bằng vải tơ tằm, sa tanh... màu xanh ngọc bích hoặc đỏ, hồng vàng. Riêng loại áo ngắn còn có một lớp lụa hay vải phin màu trắng lót bên trong.
Sường xám là trang phục thường ngày và mặc trong dịp lễ Tết của phụ nữ người Hoa. Tuy nhiên hiện nay, nữ giới dân tộc này chỉ mặc trang phục truyền thống trong dịp hội hè, yến tiệc, ngày thường họ mặc đồ như người Kinh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét