Theo tài liệu khảo cứu của Nhà văn Sơn Nam thì kỹ thuật dùng phảng phát cỏ làm ruộng thay cho cày bừa xuất hiện cách nay khoảng 200 năm và chỉ có tại vùng đất Nam bộ. Người làm ruộng nghĩ đến một kiểu dao để chém cỏ được nhiều hơn. Ngồi mà chặt thì thất sách và mỏi lưng. Đứng mà chặt thì không sát gốc, cỏ mọc trở lại. Muốn cho cỏ chết, phải chặt ngay gốc, dưới mí nước để gốc cỏ bị thối luôn. Do đó cần đến một loại dao dài; mà muốn chém cỏ trong tư thế đứng thì cán dao phải bẻ cong lại. Vì thế cây phảng xuất thân từ một loại dao, được đúc kết kinh nghiệm đầy sáng tạo của cha ông ta trên bước đường chinh phục vùng đất mới.
Hồi trước, vùng châu thổ Cửu Long là rừng rậm, đầm lầy, bưng trắc, cỏ mọc lút đầu người… Và, cây phảng đương nhiên góp công rất lớn trong việc khai hoang vùng đất rộng lớn, trù phú này! Trong quyển Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của cho chúng ta biết có ba loại phảng: phảng gai, phảng giò nai và phảng cổ cò. Phảng gai dùng để phát hoang ở những vùng đất cao ráo hoặc để phạt cỏ bờ. Phảng giò nai và phảng cổ cò dùng để phát cỏ lác, cỏ năn ở ruộng bưng. Kết quả nghiên cứu điền dã cho thấy phảng giò nai chỉ lưu hành ở vùng đồng ruộng dọc sông Vàm Cỏ và miền Đông Nam bộ. Còn phảng cổ cò lại phổ biến khắp vùng đất ruộng hai bên sông Tiền và sông Hậu.
Muốn có một cây phảng ưng ý, người xưa còn phải kỹ lưỡng chọn thợ rèn phảng. Kinh nghiệm của người thợ rèn ngoài chọn thứ thép thích hợp còn biết cách trui, đàn sao cho cây phảng không bị quá non hoặc quá già. Rồi chọn loại cây làm cán phảng để khi phát da bàn tay được mát, không phồng…
Để phát cỏ nhanh và đở mệt thì kỹ thuật mài phảng như thế nào cho bén lâu cũng phải có kinh nghiệm. Khi để quá lụt, lưỡi phảng không chạy nhanh dưới nước. Tư thế đứng và bước của người phát cũng phải được luyện rèn từ lúc mới tập tành vào nghề cầm phảng. Chân trái phía trước, chân mặt phía sau, chém dao thứ nhứt. Bỏ chân sau qua bên trái đồng thời vung cây phảng lên cao để chuẩn bị. Bỏ chân trước qua bên trái, chém lát dao thứ nhì ngay khi ngón chân cái vừa đặt xuống đất. Việc hợp lý hóa từng động tác này, nếu thực hiện đúng thì với hai dao chém xuống liền ranh nhau, có thể thanh toán một vùng cỏ rộng lớn.
Nếu lấy trung bình một lát chém bằng hình vuông mỗi cạnh 6 tấc, thì muốn dọn cho sạch cỏ trong một công đất, cần đến non 2.000 lát chém. Vì nặng nhọc như thế nên phát cỏ trên diện tích lớn là độc quyền của bọn đàn ông trai tráng. Tay mặt quơ cây phảng, tay trái cầm cây cù nèo để kèo cỏ cũng 2.000 lần cho trống chân cỏ, không thể chém bừa vãi trên ngọn vì như thế thì cỏ sẽ mọc lại.
Hồi còn làm lúa mùa một vụ, mùa phát bắt đầu từ tháng năm âm lịch đến khoảng rằm tháng sáu âm lịch là chấm dứt. Phát quá sớm khi đất ruộng còn khô thì cỏ sẽ mọc trở lại như cũ. Phát quá trễ khi nước mưa lên cao trong ruộng thì khó chém sát gốc cỏ. Phát xong, chờ năm bảy ngày cho cỏ thúi gốc rồi dùng loại bừa cào to mà kéo cỏ gom lại thành vồng, sau đó dọn cỏ qua loa, gọi là chế lại cho sạch cỏ rồi cấy.
Trai tráng trong làng thường lập nhóm, lập hội thách đố nhau phát thi, gọi là phát cuộc. Ngoài ra còn một bí quyết phát cuộc nằm ở phương pháp mài phảng và thế phát. Theo nhà văn Sơn Nam thì những người phát thế có phương pháp mài mép phảng theo kiểu mép lưỡi đục. Đồng thời, phát thế phải là người có sức mạnh, khi phát đứng bộ, đứng tấn, hiểu là có thế võ. Đa số họ phát vào ban đêm. Có những chủ ruộng thuê họ phát, sáng ra thấy ruộng cỏ vẫn y nguyên, cây cỏ đứng xửng, nhưng khi nhổ lên thì mới biết nó đã bị phạt tận gốc. Xưa có người phát thế giỏi chỉ trong vòng chưa đầy một giờ đã phát xong một công đất. Hiện nay, huyền thoại về những nông dân nầy vẫn còn lưu truyền nhiều nơi như: Cai Thoại - ở miệt Bán đảo Cà Mau, ông Giao - ở vùng Đồng Tháp Mười.v.v…Ở nơi đất rộng người thưa, tìm đâu cho đủ nhân công để phát cỏ, nên chỉ còn một cách là trau dồi kỹ thuật để mỗi người đàn ông phát trung bình một ngày được một công, hoặc hơn càng tốt; ai phát không rồi một công thường bị chê là quá dở, lười biếng, chẳng ai dám mướn tốn cơm.
Nhắc đến bữa cơm của thời còn phát cỏ, khẩn hoang, những người lớn tuổi sẽ không quên những bữa ăn dã chiến ở bờ ruộng hay cạnh một góc rừng. Những người đàn ông, trai tráng thì phát cỏ, luồng rừng để khai hoang mở thêm đất mới. Còn người phụ nữ phải tần tảo kiếm từng con cá, cọng rau rồi nấu cơm ngay cạnh nơi đang khai phá. Bữa cơm của thời khẩn hoang với món mắm chưng ăn với rau đồng khó có thể phai trong ký ức của nhiều người.
Mùa phát cỏ cũng là lúc mới vừa sa mưa nên cá đồng rất hiếm. Vì thế mắm là món thực phẩm khó có thể thay thế trong bữa cơm trong thời điểm này. Phát cỏ là công việc quá nặng nhọc nên sức ăn của người đi phát cỏ có thể gấp đôi so với sức ăn bình thường của một người. Vì thế mà nồi cơm cũng phải lớn, cơm nấu cũng phải nhiều hơn.
Hiện nay, đồng ruộng đã cơ giới hóa, việc làm đất, dọn cỏ đã có máy xới làm thay, nên hình ảnh chiếc phảng và cái cù nèo ngày càng lùi dần vào quá khứ. Thỉnh thoảng đây đó còn thấy nhà nông sử dụng cây phảng để phát liếp vườn, bờ mẫu. Nhiều nơi người ta dùng thuốc diệt cỏ, nên bây giờ muốn thấy hình ảnh nhiều người phát cỏ như ngày xưa thật không dễ chút nào. Nhưng trong ký ức của nhiều người vẫn còn không thể quên công lao đóng góp của cây phảng trong công cuộc khẩn hoang vùng đất phương Nam . Đó còn là sự sáng tạo kỳ công của cha ông mà bao thế hệ con người sinh ra trên vùng đất này không thể không nhớ đến!
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét