(Dân Việt) - Không chỉ nổi tiếng về độ trường tồn, những chiếc giếng cổ này còn khiến người ta kính cẩn bởi sự lạ là giếng không bao giờ cạn và chuyện về những bóng phụ nữ thường ẩn hiện bên giếng những đêm trăng...
Những lời đồn thổi kỳ bí của người dân địa phương dù chẳng có căn cứ gì xác thực nhưng cũng đủ làm cho những kẻ hiếu kỳ như tôi bỏ công bỏ sức về tận xã Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc để tận mục sở thị cổ vật 600 năm tuổi.
Giếng đá cổ Bá Hiến chưa bao giờ cạn nước
|
Vừa đặt chân đến xã Bá Hiến, hỏi về giếng cổ, chúng tôi đã được những người dân hiếu khách nơi đây chỉ dẫn nhiệt tình đến nhà ông Nguyễn Viết Bồng, người không chỉ biết nhiều chuyện lạ về những chiếc giếng cổ mà còn đã từng được trải nghiệm một điều kỳ diệu không thể giải thích bằng những lập luận thông thường.
Pha nước mời khách, ông Bồng hào hứng khoe: "Giếng cổ của làng chúng tôi không biết có từ bao giờ. Chỉ biết rằng từ đời cụ, đời ông chúng tôi đã có. Hàng chục năm sống tại quê hương, chưa bao giờ tôi thấy giếng cổ cạn, dù vào những thời điểm hạn hán cạn cả nước sông".
Theo các cụ cao niên trong làng Bá Hạ kể lại, thời phong kiến, Bá Hiến thuộc tổng Bá Hạ, dân cư phân bố theo 7 làng tiếp giáp nhau, còn gọi là 7 làng Kẻ Bá. Truyền thuyết kể lại, thời Hậu Lê trong một trận hỏa hoạn khiến một trong số đó là làng Tiến Nữ biến mất không còn lại dấu vết.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước cắt làng Bắc Kế (tổng Bắc Kế, xã Thiện Hiệp) và một số trại ấp của chủ Cự cùng với làng cũ Bá Hạ thành xã Bá Hiến bây giờ. Bá Hiến cũng được coi là vùng đất có lịch sử văn hóa đa dạng với nhiều đình, đền có giá trị. Đặc biệt nhất, ở Bá Hiến còn lưu giữ hơn chục chiếc giếng đá cổ và đều là giếng vuông.
Người làng truyền miệng nhau, những chiếc giếng cổ đều do người Tàu để lại vì trên thành giếng có khắc chữ Tàu. Nhưng theo các nhà nghiên cứu văn hóa thì giếng cổ Bá Hiến được đào từ thời vua Hồng Đức. Trong đó, giếng đá cổ nhất ở đây là giếng chùa Giao San ở làng Thích Chung và giếng làng Bá Hương được khai đào năm Hồng Đức 1490 (Hồng Đức nhị thập thất niên) còn khá nguyên vẹn từ tang giếng đến lòng giếng.
Chữ cổ khắc trên thành giếng
|
Cấu trúc các giếng đá Bá Hiến đều giống nhau. Không giống như các giếng đá ở các vùng quê Bắc bộ, giếng đá ở đây hình vuông, tang giếng (thành giếng) được ghép với nhau bằng bốn phiến đá sa thạch hình chữ nhật. Đá được xếp khít dựng đứng liên kết bằng các vết cắt vát và tạo lỗ mộng liên kết mà không cần đến vôi vữa. Trông xa tưởng như giếng đứng độc lập nhưng để ý kỹ, nó lại là một chỉnh thể rất quen thuộc tại các làng quê Việt Nam, đó là cây đa - giếng nước - sân đình.
Giếng chùa Giao San khắc dòng chữ “Hồng Đức nhị thập thất niên - Canh Tuất thập nguyệt thập ngũ nhật” (tức ngày 15 tháng 10 năm Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức năm thứ 27). Trên các tấm đá thành giếng còn có nhiều vết lồi lõm mà một số chuyên gia cho rằng, đó là vết tích của mài dao, kiếm để giữ làng từ nhiều đời trước.
Tại giếng Bá Hương, tang giếng ở phía đông bắc khắc dòng chữ “Hồng Đức nhị thập thất niên Canh Tuất thập nguyệt tam thập nhật” khởi tạo (tức ngày 30 tháng 10 năm Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức năm thứ 27). Còn giếng nhà ông Nguyễn Viết Bồng (Bá Hương) có dòng chữ “Bính Ngọ niên nhị nguyệt” (tháng 2 năm Bính Ngọ).
Giếng ở đây sâu trung bình từ 3 - 4m, kè giếng bằng đá được xếp chồng lên nhau từ trên xuống dưới. Đáy giếng được chặn hai tấm gỗ lim dày 10cm, rộng rộng 75cm, dài 1,5m. Một số giếng khác khi người dân dọn giếng còn thấy dưới lớp cát là lớp thân guột (họ dương xỉ) dày 10cm.
Vào ngày hội Lệ (hay còn gọi là hội Bách linh) 15.3 âm lịch hằng năm, người ta thường múc nước ở đây về tắm tượng. Đàn bà con gái đến kỳ kinh nguyệt tuyệt nhiên không được bén mảng lại gần giếng, ai bất tuân thì sẽ gặp tai ương...
Trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Văn Chính, Trưởng ban Ban văn hoá xã Bá Hiến cho biết: “Hiện nay, xã còn lưu giữ được gần 20 giếng cổ miệng hình vuông nằm rải rác ở trong thôn. Các giếng cổ còn giữ được khá nguyên vẹn tang giếng bằng đá và tấm lót giếng bằng gỗ lim. Các giếng cổ của làng cũng trải qua không ít thăng trầm. Vào thời kỳ vận động xã viên vào hợp tác xã, người ta đã khuyến khích dân làng lấp các giếng cổ vì cho rằng đó là tàn tích của chế độ phong kiến để đào giếng mới. Thế nhưng, khi đào xong, những giếng mới đều cạn nước, không dùng được nên người dân lại tìm đến những giếng cổ để khơi đất lên lấy nước dùng.
Còn việc người dân đồn thổi về bóng người thiếu nữ mặc áo trắng ở khu vực giếng hằng đêm tôi cũng đã từng nghe. Theo tôi, có lẽ đó là do mọi người nghĩ nhiều đến tâm linh nên đã mường tượng ra và cũng có thể họ sáng tác ra những câu chuyện đó để truyền lại cho con cháu sự thiêng liêng, nhằm gìn giữ những chiếc giếng cổ mãi mãi trường tồn".
Huyền bí giếng "thần" trường tồn qua 6 thế kỷ
. Định lấp giếng cổ để làm giếng mới to hơn, nhưng lạ kỳ thay, cứ mỗi lần lấp giếng là giếng mới đào lên lại không có nước. Ba lần đào lên lấp xuống như thế, gia đình bà phải khơi lại giếng cổ để lấy nước sinh hoạt.
Từ xưa đến nay, giếng cổ ở xã Bá Hiến (huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) chưa bao giờ biết cạn nước. Các cụ cao niên trong làng kể lại, những năm hạn hán trước đây, có nhà dân giếng nước sâu tới 13m mà vẫn không có lấy một giọt nước để dùng. Trong khi đó, những chiếc giếng vuông này nước đầy ăm ắp. Ở Bá Hiến bây giờ, giếng đào nhiều nhưng hằng năm, vào mùa hạn thì giếng đào cạn, đục, không thể dùng được.
Ông Bồng thoát chết trong cái giếng này khi lên 4 tuổi
|
Người dân trong làng lại phải ra giếng cổ múc nước về ăn. Gia đình bà Dương Thị Hồng ở thôn Vinh Quang là một ví dụ. Trong nhà bà có một giếng đá cổ, khi có ý định làm nhà mới, vợ chồng quyết định lấp giếng cổ để tăng diện tích và làm giếng mới to hơn, hiện đại hơn. Lạ kỳ thay, cứ mỗi lần lấp giếng là giếng mới đào lên lại không có nước. Ba lần đào lên lấp xuống như thế, gia đình bà phải khơi lại giếng cổ để lấy nước sinh hoạt.
Đấy chỉ là một trong những chuyện lạ kỳ xung quanh những chiếc giếng cổ ở Bá Hiến. Ngồi với ông Nguyễn Viết Bồng nửa buổi chiều, chúng tôi đã được ông Bồng kể cho nghe cơ man nào những điều tưởng như khó tin nhưng có thật ở giếng cổ làng ông.
Ông Bồng kể: “Năm 1951, khi đó tôi mới 4 tuổi, thừa lúc bố mẹ đi làm đồng nên một mình ra giếng cổ câu cá. Do sơ ý, tôi trượt chân, ngã tủm xuống giếng và ngâm mình dưới đó suốt 2 tiếng đồng hồ. Không hiểu sao khi ngã xuống, đầu tôi lại gối lên một phiến đá như một chiếc gối đầu và không chìm. Sau đó, có người phụ nữ đi qua nhìn thấy nên cứu tôi thoát chết”.
Sau đó, gia đình ông Bồng đã dựng miếu thờ ngay tại giếng này. Vài năm trước, em trai ông Bồng phá bỏ miếu để lấy đất làm việc khác nhưng chỉ hai, ba hôm sau ông gặp mộng liên tục. Có hôm, ông đang ngủ, cứ thấy có người gọi tên í ới ngoài cổng.
Khi ông ra cổng thì chỉ thấy màn đêm tối lặng thinh kèm tiếng gió sàn sạt qua lũy tre làng. Có đêm ông Bồng tỉnh giấc, nóng quá ra sân đứng hóng mát thì thấy bóng người con gái tóc dài, mặc áo trắng tinh đứng ngay cạnh giếng. Tin rằng còn tồn tại một thế giới tâm linh, ông Bồng và gia đình xây dựng lại ngôi miếu thờ ngay trước cửa nhà để cầu may mắn.
Không chỉ có ông Bồng, những câu chuyện mang tính chất huyền ảo, không có thật dưới góc nhìn khoa học còn được nhiều người dân ở Bá Hiến khăng khăng khẳng định là mắt thấy tai nghe. Ông Nguyễn Văn Thúy ở thôn Bá Hương cho biết: “Nói thì bảo là duy tâm nhưng cách đây khoảng 20 năm, tôi phát hiện ở khu vực giếng có một đốm sáng loang loáng từ đáy giếng phát lên.
Khi tôi cùng mọi người ra tận nơi thì vệt sáng đó tắt lịm không còn một dấu tích. Tôi có kể câu chuyện này với các cụ thì mọi người cho rằng đó chỉ là ảo giác. Vậy mà gần đây, trong làng lại rộ lên tin đồn, rất nhiều người nhìn thấy bóng một người phụ nữ mặc quần áo trắng đi từ giếng ra. Nhiều người còn khẳng định, đã tận mắt thấy người phụ nữ lạ kỳ đó”.
Một người hàng xóm tên Hương có mặt ở nhà ông Thúy cũng góp thêm câu chuyện: “Có dạo, chị em chúng tôi đi làm đồng vào tảng sáng, thấy thấp thoáng bóng người mặc quần áo trắng, xõa tóc đi từ giếng ra bờ ao. Mấy cô, mấy chị đi cùng đều rợn tóc gáy khi chứng kiến sự việc đó. Sau lần ấy, chẳng ai còn dám đi qua khu vực giếng nếu trời chưa sáng bảnh”.
Bà Dương Thị Hồng, thôn Thích Trung, cho biết: “Trước kia, có mấy ông khách ở Hà Nội lên gạ mua phiến đá ở tang giếng nhưng dân chúng tôi không nghe. Những chiếc giếng này đã quá quen thuộc với chúng tôi từ thuở lọt lòng. Nước giếng từ bao đời nay đã hòa với máu người dân chảy trong huyết mạch. Chẳng ai lại mang di sản của cha ông đem bán để rồi mắc tội với hậu thế mai sau”.
Tìm hiểu thêm từ những cụ cao niên, chúng tôi được biết, trước kia, khu vực này là một vùng đất hoang, cây cối rậm rạp, việc đi lại rất khó khăn. Dần dần, dân cư mở rộng, các khu giếng đều nằm trong đất ở và sinh hoạt của các hộ dân trong làng.
Có câu chuyện lạ là khi những người dân san lấp đất để lấy mặt bằng thì những khu vực giếng vuông cổ đều không thể lấp được. Có gia đình thuê người đổ đất lấp giếng thì ngay ngày hôm sau, khu vực giếng lại sụt lún, tạo thành hố sâu hun hút. Sau đó, họ phải khơi lại giếng và nước giếng lại đầy và trong vắt sau ít giờ khơi thông.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và tâm linh đó, rất nhiều những nhà sưu tầm cổ vật hay nghiên cứu văn hóa đã tìm về Bá Hiến để xin mua lại những phiến đá ở tang giếng cổ, thế nhưng chẳng ai dám bán đi những báu vật thiêng liêng của làng.
Theo Dòng Đời
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét