Lễ hội Long Chu
được tổ chức vào ngày 15/7 Âm lịch hằng năm, tại các làng biển thuộc thị
xã Hội An. Lễ hội thường được tổ chức ở đình làng hoặc nơi hội họp của
thôn, ấp.
Rằm tháng giêng (Thượng nguyên), rằm tháng bảy (Trung nguyên) là hai thời điểm chuyển tiếp giữa mùa mưa và mùa khô.
Cuộc sống lạc hậu, thiếu vệ sinh ở thôn
quê xưa cộng với tác động của thiên nhiên sau khô hanh, lũ lụt thường có
bệnh dịch hoành hành, lây lan cả vùng.
Vì vậy tất cả cư dân trong cộng đồng đều
có trách nhiệm tham gia cúng Long Chu. Chức sắc trong làng và các tộc
trưởng cử ra một ban chánh tế và mời thầy phù thủy chủ trì.
Họ quyên góp trong dân và xuất quĩ thuê
thợ mã làm Long Chu, số khác che rạp, bày hương án tại đình làng, ấp.
Không khí náo nức, vui vẻ, mọi lứa tuổi tham gia quét tước trong nhà
ngoài ngõ đúng nghĩa “chộn rộn chàng ràng như làng vào đám”.
Trước lễ chính một ngày, mọi việc chuẩn bị phải xong, 7 thày phù
thủy thuộc loại cao tay ấn, do thầy Cả dẫn đầu cùng các học trò lễ
(người phụ tá) đi làm phép “trấn đạo lộ” (trấn yểm).
Họ mang theo những mảnh bùa vẽ sẵn dán trên mảnh gỗ, tre, vừa đi
vừa giật khăn ấn, vừa bắt quyết, phún hỏa (phun dầu hỏa) dựng bùa vào
ngã ba ngã tư đường làng hoặc nơi nghi ngờ có quỉ, ôn tụ tập. Những nơi
này đều có một bàn thờ nhỏ, thấp, trên có một lư hương.
Nơi có đựng bùa hoặc đường dự kiến cho các phù thuỷ cùng đám người
đi trấn yểm, trừ tà ma quỉ quái đều được dọn dẹp phong quang, thoáng
đãng.
Trên đường, đoàn trấn yểm kéo dài như
đoàn rồng rắn. Phía trước là những người đánh trống, thanh la và các
thày pháp vừa đi vừa ái phà, hú hét. Phía sau là cả đoàn dài những người
tò mò đi xem.
Từng tốp trai thanh gái lịch đứng ở
vườn này, vườn kia cất giọng thách hát đối, khi thấy các tốp nam nữ ở ấp
khác đi qua. Những điệu hát huê tình, hát đúc, hát kiến tại cứ bay bổng
hàng giờ. Khi cuộc hát kết thúc, đám đông nhập vào đoàn trấn yểm và như
vậy, cuộc trấn yểm bỗng trở thành cái cớ cho người tứ xứ gặp nhau.
Hết những nơi đã định sẵn, các thầy
pháp trở về đình dán 4 lá bùa vào 4 cây cột góc và một lá ở cửa chính.
Tại đây, nhiều người thuộc các xóm ấp nhỏ trong làng, những nhà vườn lâu
nay bị “quỉ ma khuấy phá” đã chầu chực sẵn. Ai cũng mang theo vài tảng
đá đã quét vôi đến xin thầy vẽ bùa vào để về yểm.
Chánh bái cùng thầy Cả và một số tráng
đinh khỏe mạnh kèm ban nhạc, cờ xí đi trước về tại sân đình. Đầu Long
Chu xoay vào trong trước mặt có hương án, trên đựng đồ ăn bằng chuối cắt
ra gồm bánh trái, xôi thịt, cháo chè, gạo muối, thuốc, nước, củi… mỗi
thứ một ít. Thầy Cả làm phép khai quang điểm nhãn, lấy mực và son vẽ 2
con mắt cho Long Chu rồi làm lễ vô khoa (lễ cúng tổ phù thủy) làm khởi
đầu cho các lễ sau.
Đầu tiên là lễ cáo thần (lễ túc yết)
vào giờ tý (12-2 giờ đêm) lễ vật đơn sơ, hương đăng trà quả. Đến giờ mão
(6-8 giờ sáng) làm lễ tế thần. Lễ này cúng mặn, có heo, gà để bày tỏ
lòng thành của dân làng với thần, lính cai quản làng nên hết sức trang
nghiêm, trọng thể như lễ đình ở mọi nơi, có văn tế và nhạc đã coi là lệ
nên không thể bỏ.
Xong thủ tục, đến giờ thìn (8-10 giờ
sáng) lễ cúng Long Chu chính thức bắt đầu. Thầy Cả mặc áo Thái Thượng
Lão Quân in hình bát quái, thắt lưng đỏ, vai vắt khăn ấn đỏ hoặc vàng,
chân đi hia, đầu đội mũ tì lư, tay cầm cái vãng cắm hương hoặc cái kỵ
lịnh (chuông lắc), tay bắt quyết. Phụ tá cho thầy Cả có các thày con và
các học trò lễ cùng dàn nhạc.
Thầy bắt quyết cho quay đầu Long Chu
ra cổng, thầy đọc những bài chú riêng, mỗi đoạn chuyển lại gõ lệnh bài
vào hương án, trong khi các thầy con điểm nhạc, đọc kinh hòa theo và
dâng những thứ cần cho thầy Cả.
Thầy Cả vừa đọc những bài chú đầy bí
ẩn vừa đọc văn triệu 32 tướng chỉ huy, văn triệu âm binh, văn phát
lương, văn phát ngoại binh.
Các bản văn cho thấy đội ngũ binh
tướng được triệu đến để trừ tà diệt quỉ là cả một lực lượng khổng lồ.
Trên hết là những vị tổ sư: Thượng Thanh Tiên Cảnh – Linh Bảo Thiên Tôn,
Thái Thanh Chân Cảnh – Đạo Đức Thiên Tôn, Ngọc Thanh Thánh Cảnh- Nguyên
Thỉ Thiên Tôn. Phía dưới là 32 chức vị thần tướng Đông Tây Nam Bắc, ba
cung trung đạo và “vạn vật âm binh” tràn ngập trong “thế thiên la địa
võng”.
Lực lượng này được phát lương no đủ
(gạo muối) để “ra tay bắt kẻ tà ma làm lệnh”, “xây lũy đào hào bủa lưới
giăng”, “sát quỉ trừ tà hộ bổn chủ”. Quỉ ma cũng được đãi đằng tử tế, cả
những lời vỗ về hoặc lời lên án nghiêm khắc buộc phải tuân thủ dưới sự
thâu tóm của âm binh lên Long Chu đi đày miền khác.
Số nào có quá nhiều tội lỗi phải chịu
trừ khử. ở đoạn này, thầy Cả đọc văn khao ôn, văn tống quái. Nếu thày Cả
già yếu, thày phụ trẻ sẽ đọc văn thay, vừa đọc văn vừa có những động
tác múa võ, múa nhập đàn.
Phạm vi hoạt động của các thày pháp là
cả sân đình rộng. Thầy ra vào tới lui tấp nập như cuộc đấu quyết liệt
có thật với lực lượng vô hình, người xem cứ ngày càng phấn kích hể hả ra
mặt nhất là khi thày có động thái dữ dội với một tên ma quỉ ngoan cố,
ngạo mạn, khi thì thầy trầm trầm trách cứ với một kẻ đã quen mặt, đã
nhiều lần được tha nay lại bị âm binh bắt về.
Trường hợp lâu nay có chuyện hỏa tai,
có cây cột hiển linh gây đau ốm trong nhà hoặc nửa đêm thốt nhiên có đất
đá quẳng rào rào trên mái nhà, thì do chủ nhân đề nghị trước, thầy sẽ
cúng thêm và đọc những bài văn “tống hỏa tai”, “văn cúng tên bắn đất”,
“văn cúng mộc trụ”.
Nghỉ một lát, vào giờ dậu là đợt cúng
cuối cùng sau bài “phát lương”, thầy đọc tiếp các bản “văn khao Nương
Nương”, “văn khao thổ ôn thổ quỉ”, “văn khao thủy giới”, “văn lễ Hà Bá”
được xướng lên. Cuối cùng là bài “văn khao ôn” trong đó có đoạn “tạ Ôn
Vương” được đọc nhiều lần.
Các thầy phù thủy thay nhau đọc, sau
đó thầy Cả vẽ bùa bắt ấn vào Long Chu xướng lớn “yểm ghe đi không được
ngó lại”, “yểm Lục Giáp, Lục ất, hung thần đi cho mau, Lục Bính, Lục
Đinh quỉ mị phải đi gấp, Lục Mậu Lục Kỵ lánh đi cho mau, Lục Oanh, Lục
Tân, tà ma hóa ra bụi bặm, Lục Nhâm, Lục Quỉ hung nương lánh mặt đi cho
xa”.
Thầy Cả gõ lệnh bài chan chát vào
hương án, các thầy phụ cùng bắt ấn hướng vào Long Chu để giết quỉ ma.
Đến đây lễ tế tại đình kết thúc, chuyển sang phần rước Long Chu.
Theo hiệu của thầy chấp lệnh, bốn
thanh niên khiêng Long Chu có thầy Cả ngồi trên hai thanh gươm tuốt trần
bắt chéo hình chữ X: hai bên các thầy phụ đi kèm, phía sau có ông chánh
bái và ban lễ đại diện cho làng, phía trước một số thanh niên mang đuốc
chạy soi đường.
Người đánh trống chầu thúc ngũ liên,
Long Chu chạy lúp xúp tới những nơi đã trấn yểm hôm trước, các thầy phụ
đọc kinh, đọc chú, giật khăn trấn yểm. Hết nơi này đến nơi khác. Trên
đường rước Long Chu có nhiều trạm dừng chân để thay người khiêng.
Dưới ánh trăng rằm mới lên, mọi người
trong làng dùng roi quất khắp nơi rồi tràn ra đường, xông khói lửa đuốc
sáng rực ngõ xóm chờ Long Chu đến. Họ đốt pháo, quẳng roi vào Long Chu,
giật bùa của thầy về dán ở ngõ.
Tất cả đều hào hứng, âm thanh náo loạn. Người lớn, trẻ con chờ xem rồi nhập vào đám rước. Người già trẻ con ai ai cũng thích.
Long Chu đi hết các nơi phải đi cũng
đã đến giờ Hợi. Đám rước đến một nơi vắng thì dừng lại, nổi lửa đốt Long
Chu. Nơi gần sông thì họ thả xuống sông, trên Long Chu có những chén
dầu lạc làm đèn cháy sáng, trôi dần ra biển.
Ở đình Cẩm Phô, ngoài các hình thức
như nhiều nơi còn thêm tục “xô cộ” (cổ). Cộ là một dàn tre hình chóp
nhiều tầng cao chừng 2m. Mỗi tầng có đặt xôi thịt, bánh trái, tiền… Phía
trên là một khung pháo cây. Khi cúng đình xong, pháo nổ mọi người xô
vào cướp, ai được nhiều thì xem như có nhiều lộc.
Người Hoa ở các bang thường làm Long
Chu lớn và công phu hơn. Có khi toàn bộ Long Chu làm bằng vải, dài cỡ
5m, phải luồn tre xuống dưới bụng cho bốn cặp người khiêng (8 người)
cúng ở chùa Âm Bổn, Ngũ Bang hay chùa Ông.
Cộ cũng làm lớn, có khi để cả con heo
quay trên đó. Khi có lệnh xô cộ, mọi người tranh nhau vào lấy lộc, có
người thật nhanh dành được cả con heo quay để chót vót trên đỉnh giàn mà
chạy. Long Chu của người Hoa thường được thả xuống sông, trên đó có
thêm rượu, khèn, “sáp ong”, heo quay nguyên con, cả gà trống còn sống.
Như vậy, lễ hội Long Chu phần cúng lễ
kéo dài hai ngày hai đêm, nặng phần phù thủy. Long Chu thể hiện nhân
sinh quan, thế giới quan của người dân xưa, khi chưa cắt nghĩa và có
hành động giải quyết được những hiện tượng lạ quanh mình nên để thực
hiện phải nhờ đến thế lực phù thủy với các nghi lễ ma thuật huyền bí.
Bản chất đích thực tốt đẹp ban đầu bị
chìm lấp, tính chủ động, sáng tạo bị kìm hãm nên ý nghĩa hội cũng bị
chìm sâu, không nổi trội. Bóng dáng các cuộc hát đối đáp hiện lên mờ
nhạt. Trước năm 1945 Long Chu được mọi làng, ấp làm; làng làm lớn, ấp
làm nhỏ thường kết hợp với đình nên bị hiểu lầm là hoạt động phụ của tổ
chức cúng tế lớn thường kỳ hàng năm.
Long Chu là từ chỉ chiếc thuyền làm
theo hình con rồng. Đây là phương tiện sang trọng dành riêng cho vua
chúa ngự lãm hoặc tuần du ngày xưa.
Với dân gian xưa, ôn hoàng, dịch lệ là
lực lượng siêu nhiên gây hại cho người, đáng ghét đáng sợ nhưng cũng
cần kính nể. Vì vậy, làm Long Chu là dựa theo loại thuyền của vua để chở
thần, tướng, âm binh áp tải, tống quái, tống ôn và xú uế đi, mong hưởng
cái tốt lành cho nơi cư trú của con người.
Long Chu có bộ sườn đóng bằng tre,
ngoài phết giấy vẽ phẩm xanh đỏ, giữa mình là thuyền, đầu đuôi hình rồng
có đủ sừng, râu, kỳ, vẩy…
Hông trái buộc một dầm lái, trước buộc
một dầm mũi, 4 góc trước, sau thuyền có 4 hình nhân cầm dầm, một hình
nhân nữa ngồi ở lái. Trên Long Chu cắm 4 cờ, 4 cán cờ xuyên thẳng qua
thuyền thành 4 chân, giữa có lọng che và một phướn, hông thuyền cột dọc 2
đoạn tre cho 4 người khiêng, trong lòng có trang bị đầy đủ đồ dùng cho
một bậc quyền uy, có điều tất cả đều bằng tre và giấy màu.
Long Chu làm đẹp, xấu, lớn, nhỏ, hiền, dữ tùy thuộc tài năng của thợ mã và yêu cầu đã được dân làng thỏa thuận trước.
Lễ hội Long Chu, thực chất là một cuộc
tổng tấn công trừ khử tà ma dịch bệnh và cũng là công cụ để chuyển tải,
bày tỏ sâu sắc văn hóa của cộng đồng cư dân nông nghiệp./.
Cinet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét