Thứ Năm, 7 tháng 3, 2013

Ai là người lập ra 36 phố phường Hà Nội?

Trong nhiều tác phẩm văn học, âm nhạc, truyền hình hiện nay, chúng ta thường nghe đến cụm từ “Hà Nội 36 phố phường” nhưng xuất xứ và những thông tin liên quan đến nó không phải ai cũng biết.

Về băn khoan này, giáo sư sử học Lê Văn Lan đã từng đưa ra ý kiến như sau: 
“Chúng ta đang có 2 văn bản đều có tên: Hà Nội 36 phố phường, thực ra là 2 bài thơ - đúng hơn là hai bài vè - đều có tên là Hà Nội 36 phố phường. Một bản kể: Phồn hoa thứ nhất Long thành/36 phố rành rành chẳng sai… Bản kia cũng là Hà Nội 36 phố phường nhưng lại kể: Phồn hoa thứ nhất Long Thành/Phố giăng mắc cửi chạy quanh bàn cờ…
Nếu cộng các tên phố có trong các bài Hà Nội 36 phố phường thì thấy có tất cả có hơn 50 phố. Văn bản có tên 36 phố phường ấy ra đời vào cuối thế kỷ 19, gây ấn tượng lớn nhưng không nên hiểu đó là sự đánh dấu của việc ra đời Hà Nội 36 phố phường, bởi Hà Nội 36 phố phường là điều không có trong lịch sử. Hà Nội chỉ có 36 phường vào thời Lê và có hơn 50 phố bắt đầu bằng chữ “Hàng” ở cuối thế kỷ 19.
Vì sao mọi người hay nhắc tới câu Hà Nội 36 phố phường? Có lẽ “công tích” thuộc về nhà văn Thạch Lam. Tác phẩm Hà Nội 36 phố phường của Thạch Lam quá nổi tiếng, nên dù không là sự thật lịch sử thì vẫn được mọi người đón nhận.
Và người ta vẫn dùng Hà Nội 36 phố phường như 5 cửa ô của Văn Cao hay Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội của Nguyễn Đình Thi. Tác dụng của Văn học nghệ thuật là cực kỳ lớn. Rất tiếc là khoa học chưa can dự để trả lại tính chính xác của các thông tin này bên cạnh tính hấp dẫn của nó”.
Một trong các số các bài ca về 36 phố phường được ghi trong sách Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm có nôi dung như sau:
“Rủ nhau chơi khắp Long thành/Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:/Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,/Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay,/Mã Vĩ, hàng Điếu, hàng Giầy/Hàng Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Đàn,/Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Ngang,/Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Than, hàng Đồng,/Hàng Muối, hàng Nón, cầu Đông,/Hàng Hòm, hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè,/Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre,/Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà,/Quanh đi đến phố hàng Da,/Trải xem hàng phố, thật là cũng xinh./Phồn hoa thứ nhất Long thành,/Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ/Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ/Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền”.
Xét theo ghi chép của sách sử thì 36 phố phường được đặt ra từ thời vua Lê Hiển Tông với mục đích duy nhất là thuận tiện hơn trong việc giữ gìn an ninh, trật tự. Theo sách Đại Việt sử ký tục biên, vào tháng 12 năm Mậu Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748) triều đình “hạ lệnh chia bên trong kinh thành làm 36 khu, mỗi khu đặt một quan coi giữ việc tuần phòng, khám xét. Lại định phép ty tộc đoàn (liên kết các gia tộc ở gần nhau cùng giữ an ninh). Tiếp đó lại chia làm 9 điện, mỗi điện có 4 khu, mỗi khu đặt một viên chánh khu”.
Trong tác phẩm Vũ Trung tùy bút của danh sĩ sống vào giai đoạn cuối thời Lê đầu thời Nguyễn là Phạm Đình Hổ cho biết cụ thể hơn về điều này: “Kinh thành Thăng Long chia ra 36 phường, mỗi phường đặt một người phường trưởng. Lại đặt ra phủ Phụng Thiên có quan Phủ doãn, quan Thiếu doãn kiêm coi cả việc tuần phủ và việc liêm sát, đốc suất hai huyện Thọ Xương và Quảng Đức, mỗi huyện có quan Huyện úy cai trị. Toàn thành thì cử một quan trọng thần sung chức Đề lĩnh tứ thành quân vụ, phân ra chánh phó hai dinh, chuyên coi việc cấm phòng, xét hỏi.
Song đất kinh thành đông đúc, nhà ở liễn nhau, thường có hỏa hoạn, lại nhiều những kẻ đầy tớ nhà quan, du đãng cờ bạc, gây chuyện đánh nhau, cãi nhau, cùng là những kẻ vô lại trộm cắp, nhiều lắm không thể kể xiết được, chẳng khác gì lục hải khi xưa là nơi bể cạn, vật sản rất nhiều, mà lại không thiếu một hạng người nào cả.
Đời Trịnh An Đô Vương (tức Trịnh Cương- TG), Nguyễn Công Hãng làm Thượng thư cầm quyền chính, mới chia hai huyện ra làm tám khu, mỗi khu đặt một người trưởng khu và một người phó khu; lại chia ra năm nhà là một tị, hai tị là một lư, mỗi lư cũng có một lư trưởng; bốn lư là một đoàn, mỗi đoàn đặt một quản giám, hai quản điểm, dưới quyền người khu trưởng và trực thuộc quan Đề lĩnh. Đó là phỏng cái ý cổ nhân bảo trợ phù trì lẫn nhau.
Phàm những việc phòng hỏa, phòng trộm và nhất thiết những việc giao dịch thuế má đều ủy trách cho khu trưởng, đoàn trưởng cả. Bởi vậy, những con nhà khá giả coi thường, không thèm ra làm, chỉ để cho những côn đồ trong các xóm chợ ra làm. Bọn chúng cùng những kẻ ti thuộc quan Đề lĩnh thông nhau làm càn, rất phiền nhiễu cho dân phố. Ôi! “Sinh nhất sự bất như trừ nhất hại” (thêm ra một việc không bằng bớt đi một tai hại) lời nói ấy rất đúng.
Theo lệ cũ, chốn kinh thành không phải chịu thuế dung, thuế điệu, chỉ tính từng dãy nhà, không cứ nhà quan hay nhà dân, hàng năm mỗi nhà phải chịu một suất đi sửa sang đắp lại nền cắm cờ tướng, dọn cỏ chung quanh cung đình, cung ứng các việc kiến trúc. Họ phải thay phiên nhau sắm đủ dây đòn, câu liêm, thang tre, bó đuốc, thùng gánh nước để theo quân quan Đề lĩnh đi túc trực các nơi điếm canh, phòng khi sai khiến; công việc rất là phiền nhiễu. Song tóm lại không tiền là không xong, chỉ làm nặng túi kẻ gian hoạt.
Tuy bảo rằng “phù bản ức mạt” (bồi đắp gốc rễ, ngăn chặn ngọn cành), nhưng cũng không phải là biện pháp tốt của đời thái bình”. Đến thời vua Gia Long nhà Nguyễn, trong một số sách dư địa chí như cuốn “Các tổng, trấn, xã danh bị lãm”, “Hoàng Việt dư địa chí”… cho biết tên của 36 phường.
Cụ thể, ở huyện Thọ Xương có 18 phường gồm: Yên Thọ, Hà Khẩu, Báo Thiên, Đông Hà, Đồng Xuân, Đông Tác, Đông Các, Cổ Vũ, Xã Đàn, Đồng Lạc, Thái Cực, Diên Hưng, Khúc Phố, Phục Cổ, Phúc Lâm, Kim Hoa, Hồng Mai, An Xá. Mười tám phường còn lại thuộc huyện Vĩnh Thuận là: Bích Câu, Quảng Bá, Thuỵ Chương, Yên Thái, Hoè Nhai, Tây Hồ, Nghi Tàm, Nhật Chiêu, Trích Sài, Võng Thị, Bái Ấn, Yên Lãng, Công Bộ, Thạch Khối, Hồ Khẩu, Thịnh Quang, Yên Hoa và Quan Trạm.
Vào năm Tân Mão (1831) vua Minh Mạng tiến hành cuộc cải cách lớn, trong đó có việc phân chia và đặt tên mới theo địa giới hành chính cấp tỉnh; lúc này Thăng Long xưa được sáp nhập với một số khu vực khác thành tỉnh Hà Nội với diện tích rộng hơn, gồm 4 phủ, 15 huyện so với Thăng Long xưa.
Trong số 15 huyện của Hà Nội vẫn có 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức, 36 phố phường đều nằm trong địa phận hai huyện này. Sách “Hoàng Việt dư địa chí” in vào năm Qúy Tị (1833) cho biết như sau: “Phủ Hoài Đức, xưa là phủ Phụng Thiên có hai huyện, 13 tổng, 249 thôn phường. Huyện Thọ Xương: 18 phường. Huyện Vĩnh Thuận (xưa là huyện Quảng Đức): 18 phường”.
Trải qua thời gian và biến thiên của lịch sử, phố phường Hà Nội xưa đã thay đổi nhiều về tên gọi, số lượng cũng như diện tích nhưng một số vẫn giữ nguyên tên cũ như gợi nhắc cho những tâm hồn hoài niệm về một Hà Nội trong quá khứ.
Theo Diendanhanoi/Vietnam+

Những phố "Hàng" Hà Nội đã mất tên

Đầu thế kỷ XIX, có nhà họ Đoàn nghĩ ra món ăn ngon: Chả cá, và từ đó chính quyền cũng chịu thua gia đình này, đành chấp nhận phố này mang tên Chả Cá và phố Hàng Sơn không còn nữa.

    Theo Tổng tập nghìn năm văn hiến Thăng Long, con số "Ba sáu" phố phường có lẽ chỉ là số tượng trưng như điệu hát cửa đình 36 giọng, trong Binh thư 36 chước, đánh cờ 36 nước, chứ thực ra Hà Nội có gần 80 chữ Hàng tên phố, sang thế kỷ mới mất đi gần 20 chữ.
    Một dọc phố Hàng Gai (bán lưới đánh cá làm bằng sợi gai vì gần Hồ Thái Cực), Hàng Bông có Hàng Bông Đệm, Hàng Bông Lờ, Hàng Bông Cửa Quyền, hai bên có Hàng Mành, Hàng Hòm, Hàng Nón, Hàng Trống (còn gọi là Hàng Thêu). Khu phố cổ nhiều Hàng nhất: Hàng Thiếc, Hàng Điếu, Hàng Đồng, Hàng Bát Sứ, Hàng Bát Đàn, Hàng Vải Thâm, Hàng Sắt, Hàng Bừa (nay là Lò Rèn), Hàng Rươi, Hàng Lược, Hàng Chai (chính ra là ngõ Chè Chai mới chính xác), Hàng Cân, Hàng Sơn (món ngon Chả Cá đã chiếm lấy tên này, thành ra phố Chả Cá). Nhiều phố khác nữa như Hàng Quạt nằm trên phố Hàng Đàn cũ, còn Lương Văn Can lại nằm đè lên phố Hàng Quạt. Hàng Bún nằm tít phía Quán Thánh, trong khi Hàng Cháo dạt sang gần sân vận động Hàng Đẫy.
    Phố Hàng Đũa là đâu, là phố Ngô Sỹ Liên. Còn Hàng Khay lại nằm kề bên Hồ Gươm, trong khi Hàng Giò là đầu phố Bà Triệu. Và bách hóa Tràng Tiền chính là đất phố Hàng Bài.
    Có hai phố Hàng Vôi nay một vẫn là Hàng Vôi, một là Lý Thái Tổ. Hai phố Hàng Mã, một là Hàng Mã hiện nay, hai là Hàng Mã Vĩ gộp với Hàng Mây thành Mã Mây. Hai phố Hàng Gà, một nối vào Hàng Cót và một chính là đầu Phố Huế, từng là cái chợ chiều họp chớp nhoáng, có rau cỏ, con cá, con gà, bán mua vội vã. Lại còn Hàng Tre nối với Hàng Sũ, ăn ngang là Hàng Dầu, buôn bán dầu ăn dầu thắp, nay có hàng cây hoa Sưa rất đẹp nở trắng muốt về mùa Xuân (không phải hoa Sữa có dấu ngã).
    Cũng quãng này còn có Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Trứng, Hàng Chĩnh, toàn những phố ngắn và nhà nhỏ bé, vừa thấp vừa nông. Phố Hàng Giày có món bánh trôi nóng của nghệ sỹ Phạm Bằng bán vào buổi tối, đi một đoạn là phố Hài Tượng, tức nơi ở của những người thợ làm giày dép, hài, hán. Hàng Cỏ không còn ai buôn cỏ mà đã có nhà ga xe lửa, đó là phố Trần Hưng Đạo.
    Đầu Hàng Buồm có ngõ Hàng Thịt. Hàng Đẫy thành phố Nguyễn Thái Học xe đi một chiều. Hàng Bừa không làm răng bừa nữa mà sản xuất đồ sắt như cửa cuốn. Hàng Lọng không còn nhà nào làm ô, làm tán, làm tàn, làm lọng, nó là khúc đầu tiên của con đường thiên lý xuôi Nam.
    Hàng Kèn là đầu phố Quang Trung. Hàng Chè là đầu phố Cầu Gỗ giáp với Hàng Đào, còn Hàng Cau là đầu phố Hàng Bè, giáp với Hàng Mắm. Riêng phố Hàng Sơn từng bán sơn từ Phú Thọ chuyển về, đựng vào những cái "nải" bằng tre đan, có sơn nên nó thành thùng kín. Đầu thế kỷ XIX, có nhà họ Đoàn nghĩ ra món ăn ngon: Chả cá, và từ đó chính quyền cũng chịu thua gia đình này, đành chấp nhận phố này mang tên Chả Cá, mà Hàng Sơn không còn nữa.
    Hàng Trống nay cũng không còn ai làm nghề bưng trống, tiện tang trống cho trẻ hay làm thứ trống ếch bịt bằng da dê... nó từng có tên Hàng Thêu vì ngoài nghề vẽ tranh, người dân ở đây còn có nghề thêu nổi tiếng. Phố Hàng Bún một thời có tên là Hàng Mụn, không phải mụn trên cơ thể mà là mụn bằng vải cũ để vá quần áo. Nhắc đến dòng tên này ta có phần ngậm ngùi về một thời Thăng Long nghèo khó, quần áo rách phải vá chằng vá đụp nên mới có hẳn một phố bán các thứ mụn đủ màu như thế. Trại Hàng Hoa nay cũng đã lặn chìm vào lòng đất.
    Nó là đầu dốc Ngọc Hà, cạnh vườn Bách Thảo, mà từ chỗ này Khái Hưng và Nhất Linh đã sáng tác tiểu thuyết "Gánh hàng hoa" nổi tiếng một thời, được dựng thành phim với chủ đề trong sáng của người con gái Hà Nội bán hoa nuôi chồng ăn học…
    Phố Hàng Chai như trên đã nói, thực ra đây là một ngõ nhỏ, cực nhỏ, chỉ có bề rộng chưa đầy 2m, từng là nơi chiều chiều các bà đi rong buôn bán các loại phế phẩm. Là lông gà lông vịt, chai lọ cũ, sắt vụn đồng nát, vỏ bao đựng chè tầu bằng thiếc, bằng thủy tinh, gọi chung là các bà "đồng nát, chè chai lông vịt" vì thế mà ngõ này mang tên ngõ Chè Chai.
    Không hiểu sao sau này chính quyền thành phố lại gạt lịch sử ra ngoài, gọi nó là phố Hàng Chai, cũng như bỏ cái tên phố Hàng Đũa, một nét đặc biệt của người Việt Nam, ăn cơm bằng đũa mà không ăn bằng thìa, bằng dĩa hoặc ăn bốc. Cũng không hiểu còn những ai ở Hà Nội nhớ về cái phố nho nhỏ ấy từng mang tên như thế, nó khuất mình phía sau ga Hàng Cỏ, nay là ga Trần Quý Cáp.
    Còn Hàng Bút vốn là đoạn cuối của phố Thuốc Bắc. Hàng Bừa và Hàng Cuốc (nay gộp lại là phố Lò Rèn), Hàng Tàn tức Hàng Lọng (nay là đoạn đầu phố Lê Duẩn), Hàng Bột (nay là phố Tôn Đức Thắng), Hàng Đàn (nay là phố Hàng Quạt), phố Hàng Màn (nay là đoạn đầu phố Hàng Giày), phố Hàng Lam (đoạn đầu phố Hàng Ngang), phố Hàng Lờ (cuối Hàng Bông), phố Hàng Nâu (nay là Trần Nhật Duật), phố Hàng Tiện (nay là đoạn đầu Hàng Gai), phố Hàng Trứng (đoạn cuối phố Hàng Mắm), phố Hàng Gạo (phố Đồng Xuân), phố Hàng Sắt (nay là đoạn đầu phố Thuốc Bắc).
    Theo hanoitv.vn

    Mã Mây, phố nằm trong phố

    Chỉ dài chưa đầy 300 m nhưng Mã Mây hiện là con phố còn lưu giữ được nhiều nhà cổ nhất Hà Nội. Nổi bật trong đó là ngôi nhà cổ số 87 với kết cấu vẫn còn nguyên vẹn.
    Khu phố cổ Hà Nội từ lâu là điểm đến quen thuộc của nhiều du khách trong và ngoài nước. Nhưng để có thể khám phá hết nét trầm mặc, cổ kính của một đô thị cổ, ít ai có đủ thời gian và kiên nhẫn đi dạo 36 phố. Nếu các phố Hàng là nơi bạn tìm hiểu về các nghề truyền thống, thì chỉ cần tới Mã Mây là bạn đã có thể hình dung rõ nét về văn hóa và kiến trúc đất kinh kỳ đầu thế kỷ 20.
    wiki_1382663395_1382663569.jpg
    Mã Mây trước đây còn có tên gọi Quân Cờ Đen. Ảnh: wiki
    Nói đến phố cổ là nói đến những nếp nhà ngói đỏ lô nhô, liền kề san sát. Trong khi đó, Mã Mây sở hữu tới gần 10% số nhà cổ ở đây, và được coi là phố cổ thu nhỏ ngay trong lòng Hà Nội. Mã Mây là tên ghép của hai tuyến phố xưa kia là Hàng Mây và Hàng Mã (khác với phố Hàng Mã gần chợ Đồng Xuân). Thế nên, người ta thường gọi Mã Mây là phố của hai phố.
    Ngày nay, phố Mã Mây bắt đầu từ Hàng Buồm đến Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm. Không giống nhiều con đường thẳng tắp trên phố cổ, Mã Mây uốn lượn theo các nếp nhà tạo nên con đường có dáng vẻ rất riêng. Nếu bắt đầu đi bộ từ đầu phố, dọc một dãy từ số 19 đến 33 từng là nhà tù của Hà Nội do người Pháp lập ra những năm đầu thế kỷ 20. Đến nay đầu phố chỉ còn những quán hàng tấp nập, chủ yếu phục vụ khách du lịch phương Tây.
    Nếu là người yêu thích ẩm thực, bạn có thể dừng lại ở ngôi nhà số 25 của nghệ nhân Ánh Tuyết, để được dạy nấu các món ăn Hà Nội và tìm hiểu về ẩm thực Việt Nam. Điều này khiến không ít các du khách nước ngoài hứng thú, say mê. Nơi đây còn là điểm tham quan hấp dẫn khi ngôi nhà đuợc xây dựng hoàn toàn từ gỗ, tạo nên không gian ấm áp, gần gũi, giản dị mà tinh tế, mang đậm nét cổ kính, quyến rũ của một căn nhà phố thị thời xưa.
    ione-JPG.jpg
    Số nhà 25 Mã Mây, địa chỉ ẩm thực được nhiều du khách quốc tế tìm đến. Ảnh: Kha Di.
    Điểm dừng chân tiếp theo là đền Mã Mây ở số 64. Đền thờ Nguyễn Trung Ngạn, người làm quan dưới 5 triều vua Trần, từng giữ chức Đại doãn kinh sư, đứng đầu kinh thành Thăng Long. Tại ngôi đền còn giữ được 6 đạo phong thần của ba vương triều Lê, Tây Sơn và Nguyễn cùng với 7 tấm bia đá. Nội dung của các bài văn bia là một kho sử liệu phong phú với những tên người, tên đất, những sự kiện cụ thể của các danh nhân địa phương.
    Đáng chú ý nhất trên phố Mã Mây là ngôi nhà cổ số 87. Được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ 19, trải bao biến cố thăng trầm lịch sử, nhưng ngôi nhà vẫn giữ được nguyên lối kiến trúc cổ kính, mộc mạc, tựa như những nét vẽ hay gặp trong tranh “phố Phái”.
    Mang kiến trúc đặc trưng truyền thống ở khu phố cổ Hà Nội, ngôi nhà được thiết kế với dạng hình ống, mái lợp ngói ta, nhà hẹp chiều ngang, có nhiều lớp sân trong ngăn cách. Ngoài cùng là cửa hàng, tiếp đến là một sân nhỏ với giếng trời, giúp lấy ánh sáng tự nhiên và nước mưa sinh hoạt. Kế đến là gian nhà hậu làm kho, sân trong cùng làm bếp và khu phụ với không gian mở thoáng khí.
    dayhocintel_1382663662.jpg
    Số nhà 87 Mã Mây giống như trung tâm văn hóa của khu phố cổ. Ảnh: dayhocintel
    Chiếc cầu thang cổ đã nhuốm màu thời gian sẽ đưa du khách lên tới tầng 2, nơi diễn ra mọi sinh hoạt riêng của gia đình Hà Nội. Phòng thờ, phòng tiếp khách, phòng ngủ được thiết kế nối tiếp nhau từ ngoài vào sâu bên trong. Trong nhà, các phòng không có tường mà mở thông ra phố bằng những cửa gỗ lớn. Ngoài ra, còn có không gian riêng để trồng cây cảnh.
    Vật dụng trong nhà chủ yếu là đồ gỗ và mây tre đan truyền thống như mâm gỗ, gáo dừa… cùng những chum, vại, võng… làm tôn thêm vẻ đẹp cổ kính của ngôi nhà, đồng thời khiến du khách như được quay lại quá khứ xa xưa.
    Không chỉ bày bán nhiều mặt hàng thủ công truyền thống như đồ nạm bạc, tranh giấy gió, tranh sơn mài, tranh Đông Hồ và các nhạc cụ dân tộc của làng nghề Đào Xá, du khách đến đây còn được nghe hát ca trù vào một số buổi tối trong tuần.
    Vy An

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét