Lễ dâng hương đền thờ họ Mạc diễn ra long trọng, vì Mạc Cửu (1655-1735) là một thương gia người Hoa có công khai phá và hình thành vùng đất Hà Tiên. Đền thờ Mạc Cửu do con trai ông là Mạc Thiên Tích thiết kế, xây dựng từ năm 1735 đến năm 1739. Mặt đền quay về hướng đông, nơi có ao sen, xa hơn nữa là đầm Đông Hồ. Lưng đền tựa vào vách núi Bình San có hình vòng cung, rất vững chãi. Bên trái đền là núi Bát Giác, bên phải đền là Đại Kim Dự. Tên chữ đền thờ họ Mạc là Trung Nghĩa Từ, dân gian còn gọi là miễu Ông Linh.
|
Cổng ngoài đền thờ Mạc Cửu. |
Mạc Cửu (sinh năm 1655 tại Triều Châu, Quảng Đông, Trung Quốc) đưa cả gia đình cùng đoàn tùy tùng đến Hà Tiên định cư, lập nên làng ấp, biến địa phương hoang vu xa xôi này thành một cảng thị phồn vinh. Khi Mạc Cửu qua đời, với công trạng ấy, ông được Ninh Vương truy tặng “Khai trấn, Thượng trụ quốc, Đại tướng quân Vũ Nghị công”...
Bước vào cổng đền thờ là khoảng sân rộng, lúc nào cũng yên tĩnh, trầm mặc trong bóng mát của nhiều loại cây xanh. Đền thờ Mạc Cửu nằm đối diện với cổng, với cột hình vuông, có những bức hoành phi và liễn đối. Ngay chánh điện đền có biển thờ với bốn đại tự: “Khai trấn trụ quốc”. Đây là sự ghi nhận công đức của dòng họ Mạc trong công cuộc khai phá, mở mang bờ cõi nước Việt về phía nam. Đặc biệt, trên vách tường đền có 10 bài thơ nổi tiếng của Mạc Thiên Tứ, “Hà Tiên thập vịnh”.
|
Cổng trong đền thờ Mạc Cửu. |
'Mạc Thiên Tích được Trịnh Hoài Đức viết trong Gia Định thành thông chí, như sau: “Tuy Mạc Cửu là người khai sáng đất Hà Tiên, nhưng người mở mang trấn nầy lại chính là con ông, Mạc Thiên Tứ (...) Mạc Thiên Tứ sanh đêm mồng bảy, tháng ba, năm Bính Tuất (1706) ở Trũng Kè, tiếng Hán gọi là Lũng Kỳ, tức đất Réam của Cao Miên (Lũng Kỳ còn được người Tây phương âm là Longky, nay thuộc vùng đất Sihanoukville). Ông mất (tuẫn tiết bằng cách uống vàng lá) ngày mồng 5 tháng 10 năm Canh Tý (1780) tại Vọng Các (Băng Cốc), thọ 75 tuổi. Về sau Mạc Thiên Tứ đổi tên là Mạc Thiên Tích có nghĩa là “của Trời cho” ứng với huyền sử khi sinh ra ông, nhưng thật ra chữ Thiên Tứ cũng có nghĩa là “Trời cho”. Mạc Thiên Tứ hiệu là Sĩ Lân, bút hiệu ký là Sĩ Lân Thị”.
Phía sau đền thờ Mạc Cửu là lăng mộ nhà họ Mạc, trên núi Bình San, được gọi là núi Lăng. Núi Lăng, trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cho biết: “Bình Sơn (núi Bình) ở về phía tây của trấn lỵ độ 1 dặm, cao hơn 5 trượng, các ngọn chồng chất, khoanh cuộn nối góc bể. Thế núi chon von, vòng quanh làm bình phong mặt sau cho trấn. Ngoài có suối sâu chảy bao quanh về hướng nam rồi đổ ra biển. Phía bắc giáp Mương Sâu nối 1iền với suối Bạch Tháp rồi chảy ra Đông Hồ, làm hào của trấn thành. Bình San (sơn) điệp thúy (núi Bình trùng biếc) là một trong mười cảnh đẹp ở Hà Tiên”.
Con đường từ đền thờ họ Mạc lên núi khá thoai thoải, với bậc cấp bằng đá xanh, đi xuyên qua những “rừng” cây bạch mai sản sinh từ cây mẹ đem từ Quảng Tây (Trung Quốc) sang trồng vào năm 1720. “Bạch mai mới thực là thơm đẹp lạ thường. Người ta dùng bạch mai phơi khô để ướp trà. Mầu hoa trắng như tuyết, nhị vàng hoa trông tương tự như hoa mù u, cho đến nhánh lá đều giống. Hoa mù u cũng nhị vàng cánh trắng, nhưng thiếu vẻ tinh thần, là không có cái u hương thanh vị bằng hoa mai” (*).
Hằng năm, vào những ngày tết Nguyên đán, mai nở trắng cành, tỏa hương thơm ngát. Trên núi có quần thể lăng mộ dòng họ Mạc do Mạc Thiên Tứ lập từ năm 1735 đến 1739, với phần mộ Mạc Cửu, các vị phu nhân, con cháu và tướng lĩnh họ Mạc. Ở đây có cổng đền thờ, với hai câu đối: “Nhất môn trung nghĩa gia thinh trọng / Thất diệp phiên hàn quốc lũng vinh” (dịch nghĩa: Một nhà trung nghĩa danh thơm cả họ / Bảy lá giậu che, cả nước mến yêu), do vua nhà Nguyễn ban tặng.
Lăng Mạc Cửu là một cảnh đẹp của Hà Tiên, thu hút nhiều khách tham quan. Đến đây, ai cũng hoài tưởng đến Mạc Thiên Tứ, người “chiêu tập các nhà văn học tài nghệ, do đó văn nhân tỉnh Phúc Kiến (...), văn nhân tỉnh Quảng Đông (...); người phủ Gia Định (...); đạo sĩ tỉnh Phúc Kiến (...) nối gót nhau đến. Mạc Thiên Tích lập ra Chiêu Anh Các, mua sắm sách vở, thường ngày ông cùng các nhà Nho luận bàn kinh sách, lại có thơ vịnh thập cảnh ở Hà Tiên, được rất nhiều người hưởng ứng họa theo, từ đó văn phong mới nổi tiếng cả một dọi biển”. (Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí).
Ngày 7-9-2008, kỷ niệm 300 năm thành lập Hà Tiên, ghi nhớ công lao Mạc Cửu, tỉnh Kiên Giang đã long trọng tổ chức lễ khánh thành tượng đài Mạc Cửu tại công viên Mũi Tàu, phường Tô Châu, thị xã Hà Tiên. Tượng Mạc Cửu bằng đá xanh cao 7 mét, trên bệ cao 3 mét, được khởi công ngày 11-8-2007, uy nghi bên núi Tô Châu và cầu Tô Châu.
__________________________________________________________________________
(*)
Đông Hồ và Nguyễn Văn Kiểm sao lục, Cảnh vật Hà Tiên, Nam Phong tạp chí, 1917-1934.
Đền thờ họ Mạc, dấu xưa tiền nhân
Được xếp đầu trong danh sách
Hà Tiên thập vịnh, đền thờ là nơi người dân Hà Tiên (Kiên Giang) tưởng
nhớ công đức của dòng họ Mạc, những người có công khai phá mảnh đất này.
Theo sử sách ghi lại, Mạc Cửu là người Hoa, vì không muốn sống dưới sự
thống trị của nhà Thanh, ông đã đưa gia đình lên thuyền xuôi Nam. Khi
đến đất Hà Tiên hiện nay, ông đã dừng lại định cư, khai phá vùng đất
này. Khi nhà Nguyễn tiến hành công cuộc mở rộng bờ cõi về phương Nam vào
đầu thế kỷ 18, Mạc Cửu đã dâng vùng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn (năm
1708) và được phong làm 'Tổng trấn xứ Hà Tiên'.
Chúa Nguyễn đã cho Mạc Cửu toàn quyền tự chủ vùng đất này và duy trì
truyền thống cha truyền con nối. Trải qua 7 đời nắm quyền, dòng họ Mạc
đã biến vùng đất Hà Tiên hoang sơ thành một trong những địa điểm buôn
bán sầm uất nhất trong khu vực.
|
Đền thờ họ Mạc nằm trên đường Mạc Cửu ở thị xã Hà Tiên. Đây là điểm
tham quan đứng đầu trong danh sách Hà Tiên thập vịnh. Ảnh: Tiêu Phong.
|
Có tên gọi khác là Trung Nghĩa Đường hay miếu Ông Lịnh (cách gọi của
người dân địa phương), lăng Mạc Cửu nằm dưới chân núi Bình San với mặt
hướng về phía Đông, nơi có núi Tô Châu và dòng Đông Hồ thơ mộng. Lăng là
một quần thể kiến trúc đền thờ, lăng mộ dòng họ Mạc từ dưới chân núi
cho lên đến đỉnh núi. Đây là công trình được chính Mạc Thiên Tích (con
trai cả của Mạc Cửu) thiết kế và xây dựng vào khoảng thời gian
1735-1739.
Tên gọi Trung Nghĩa Đường bắt đầu từ hai câu đối do chúa Nguyễn ban
tặng “Nhất môn trung nghĩa gia thinh trọng. Thất diệp phiên hàn quốc
lũng vinh” (Một nhà trung nghĩa danh thơm cả họ. Bảy lá giậu che, cả
nước mến yêu), ý nói dòng họ mạc đời đời Trung Nghĩa. Lăng được xây dựng
theo kiến trúc ba gian với cổng Tam Quan phía trước, hai bên là hai câu
đối của chúa Nguyễn.
|
Bên trong đền thờ được xây dựng theo kiến trúc 3 gian, đây là nơi
thờ cúng dòng họ Mạc cùng với những người có công khai phá mảnh đất Hà
Tiên. Ảnh: Tiêu Phong.
|
Từ ngoài cổng đi vào là một khoảng sân rộng, giữa sân là nơi dừng chân,
dành cho các cuộc hội họp ngày xưa của dòng họ. Bên trong là đền thờ ba
gian, với đền thờ tiền hiền bên phải (thờ những người đến vùng đất này
trước ông Mạc Cửu), bên trái là đền thờ hậu hiền (thờ những người đến
vùng đất này sau ông Mạc Cửu). Điểm thờ cúng chính của đền có 4 chữ
'Khai Trấn Trụ Quốc' của nhà Nguyễn ban tặng cho dòng họ Mạc. Bàn thờ
ông Mạc Cửu và hậu duệ 7 đời được đặt trang nghiêm giữa chính điện. Các
quan văn, võ hay các phu nhân được thờ ở hai bên phải trái.
Ngoài khu vực chính là đền thờ, các ngôi mộ của dòng họ Mạc đều được
xây dựng trên núi Bình San. Phía trước đền là hai ao sen lớn, tương
truyền đây là hai ao nước ngọt được Mạc Cửu cho người đào để tích trữ
nước ngọt cho người dân Hà Tiên sử dụng vào thời điểm khô hạn.
Tuy trải qua gần 300 năm, nhưng đền thờ, lăng mộ dòng họ Mạc vẫn giữ
được nguyên vẹn những nét kiến trúc của thời kỳ đầu. Ngày nay, đền thờ
dòng họ Mạc là điểm đến đầu tiên của du khách khi đến thăm quan Hà Tiên
thập vịnh (gồm các danh thắng như Thạch Động; Đông Hồ ấn nguyệt; bãi
biển Mũi Nai; núi Bình San...). Đến đây, du khách sẽ được nghe lại những
câu chuyện, những truyền thuyết về dòng họ Mạc, một dòng họ được người
dân Hà Tiên đời đời tưởng nhớ, tôn thờ.
Tiêu Phong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét