Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013

Vào ngôi làng để rồi cười … vỡ bụng

(VTC News) - “Văn Lang cả làng nói khoác” là câu truyền miệng từ rất xa xưa mà người dân quanh vùng đặt cho Văn Lang (giờ có tên là Văn Lương, Tam Nông, Phú Thọ). Đó là một ngôi làng nằm trên những quả đồi đá sỏi gan trâu. Cuộc sống còn khốn khó, nhưng nhờ sự vui tính, sôi nổi, hồn nhiên mà người dân trong làng luôn yêu đời và cứ trẻ mãi.

Tôi đến Văn Lang vào một buổi sáng đẹp trời. Chợ quê nghèo chỉ có mấy thứ hàng nông sản. Tôi đi qua chợ, chợt có một giọng nói dề dề mà lanh lẳnh vang lên:

-Anh ơi, mua khoai nhà em đi, em cam đoan không ở đâu có thứ khoai nước dẻo bằng khoai nước làng em. Nó cứ quánh lại ấy.

- Chị này cứ nói quá!

- Thật đấy anh ạ. Lại đây em kể cho mà nghe. Bữa trước bà ngoại em sang chơi. Bố nó luộc một nồi mời bà em xơi. Chỉ mới đun sủi lăn tăn đã đổ ra. Vậy mà bà em mới cắn có một miếng bỗng thấy nín thít...

Tưởng bà ngộ gió, chồng em chạy đến vuốt ngực nhưng bà cứ lắc đầu không nói được. Cả nhà được một bữa hết hồn. Hóa ra không phải. Sau khi bố nó lấy tay mếch hàm trên, bà em há được mồm thì văng cả khoai lẫn răng ra ngoài. Chao ôi, rụng không còn cái răng nào. Chỉ tại khoai nhà em dẻo quá nó gắn chặt hai hàm răng lại.

Biết các cô gái Văn Lang hay đùa, tôi cũng không vừa: “Dẻo thế thì bố ai dám ăn nữa!”. Thế là tất cả cùng phá lên cười.

Vào ngôi làng để rồi cười … vỡ bụng
Một góc làng Văn Lang. 

Tôi và một đồng nghiệp đi vào làng, qua cánh đồng, thì bắt gặp một tốp học sinh nữ đi học về. Một cô nói rõ to: “Con gái Văn Lang xinh thế này lên hình có đẹp không anh?”. “Thử là biết ngay” – tôi đáp lời.

Thế là mấy cô học sinh đứng ngồi lố nhố bên bờ ruộng, tạo dáng cười tí toét cho tôi chụp ảnh. Chụp xong, quay lại chỗ để xe thì không thấy mũ, kính đâu nữa.

Tôi hỏi thì một cô bảo: “Em thấy cái Lan nó đội thử mũ và đeo kính của anh, không biết nó đi đâu rồi. Anh vào nhà nó mà lấy. Nhà nó ở chân đồi kia kìa”.

Tôi hỏi đường vào nhà cô gái tên Lan, học sinh lớp 12. Mấy cô cậu học sinh độ 17-18 tuổi chỉ vào ngôi nhà lá trên sườn đồi dốc dác quanh co. Vào sân gọi mãi chỉ thấy một chị tầm 40 tuổi đi ra.

Chị ta bảo: “Cái Lan nó ở xóm bên cơ, ngôi nhà có cái cổng xanh ấy…”. Thì ra chị ta cũng tên là Lan, một chị... không chồng trong xóm.

Vào ngôi làng để rồi cười … vỡ bụng
Một nghệ nhân đang kể chuyện cười cho phóng viên. 

Tôi tìm đến ngôi nhà có cổng xanh, và cất tiếng gọi: “Lan ơi! Cho anh xin mũ”. Lát sau, một bà lão gầy gò, mắt mờ lần ra mở cổng: “Ai gọi đấy, em là Lan đây!”. Tôi phải xin lỗi rối rít bà cụ.

Lần mò mãi cũng tìm thấy nhà Lan. Khi chúng tôi đến, Lan ngạc nhiên: “Em để kính và mũ ở chỗ cũ mà”.

Tôi chở Lan ra chỗ chụp ảnh lúc nãy thì chẳng thấy kính và mũ đâu. Lan bảo: “Lúc em cầm mũ ra trả anh thì có cái xe trâu đỗ ở đó, em đành phải để cái kính và cái mũ ở trên xe trâu, sợ để chỗ khác anh không tìm thấy. Anh cứ tìm xem xe trâu ở đâu thì có mũ và kính ở đó...” .

Tôi đành để lại mũ và kính làm quà kỷ niệm cho mấy cô gái Văn Lang, chứ giờ tìm đâu ra cái xe trâu đỗ ở bờ ruộng hồi sáng.

Đấy là một kỷ niệm vừa bực vừa buồn cười trong một lần về làng Văn Lang.

Vào ngôi làng để rồi cười … vỡ bụng
Người Văn Lang đều vui vẻ, nên trẻ lâu. 

Làng Văn Lang được mệnh danh là “làng nói khoác”. Người nơi khác có gọi Văn Lang là làng nói khoác, thì người Văn Lang cũng chẳng bực bội gì. Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Nói quá một chút cho vui, cũng chả hại ai.

Văn Lang nằm biệt lập trên mấy ngọn đồi, xung quanh bốn bề là ruộng đồng, đầm trấu. Văn Lang còn rất nghèo nhưng lại nổi tiếng bởi cái giọng nói vừa ngọt vừa mát và tài nói quá như thần.

Trưởng ban văn hóa xã Văn Lương, ông Hán Văn Bình cho hay: “Dân Văn Lang có giọng nói nghe khác hẳn với dân quanh vùng. Phát âm thường kéo dài, tiếng lanh lảnh và nâng cao lên đến lạc thanh lại bỗng hạ hẫng.

Chính chất giọng đặc biệt của dân Văn Lang làm cho những câu chuyện bình thường qua miệng kể mang nặng thơ âm khác lạ một thứ duyên thầm. Cũng câu chuyện ấy người làng khác kể thì không gây được tiếng cười, thậm chí phản cảm, nhưng qua miệng kể với thanh giọng đặc biệt và lối kể chuyện tưng tửng của dân Văn Lang thì người dân quanh vùng cứ gọi là ôm bụng cười “chảy nước mắt”.

Vào ngôi làng để rồi cười … vỡ bụng
Một cảnh trong phim hài: "Tết Văn Lang cả làng nói phét". 

Chủ tịch xã Hán Văn Tuấn cũng thừa nhận: “Dân chúng tôi mà đi nơi khác nói chuyện thì thiên hạ chỉ có há hốc mồm mà nghe”.

Anh cũng khẳng định rằng, bất kỳ trai gái ở đâu đến lấy vợ, lấy chồng Văn Lang đều trẻ đẹp ra và quảng giao hơn.

Đó là do dân làng có một nền tảng nghệ thuật từ rất lâu đời, một thứ văn hóa gia truyền và khả năng tiếp thu bẩm sinh khiến một đứa trẻ được sinh ra ở đây chưa biết đi đã biết hát, biết nói hay rồi.

Chả thế mà đội văn nghệ của xã mới khôi phục lại từ cuối năm 2000, sau mấy chục năm tan rã đã được huyện, tỉnh, thậm chí Trung ương mời đi hội diễn khắp nơi.

Đến nay, đội văn nghệ gồm các diễn viên, đạo diễn, tác giả kịch bản đều là nông dân đã gặt được mấy chục giải A. Văn Lang còn là nơi sản sinh ra khá nhiều nghệ sĩ ưu tú, được nhân dân cả nước biết đến, như nghệ sĩ ưu tú Hán Văn Tình (đóng vai Chu Văn Quyềnh trong phim Đất và người), nghệ sĩ ưu tú Hán Văn Thân và Nguyễn Xuân Yêm (Nhà hát tuồng Việt Nam)...

Có thể nói dân Văn Lang từ già đến trẻ đều biết nói quá. Một số “cao thủ” nói phét tài đến nỗi đi đâu nói thật người ta cũng không tin. Những cây nói phét siêu hạng đó là: “Nhất Sinh, nhị Kích, tam Dương, tứ Chí, ngũ Định, bát Nhị”. Chỉ cần tập hợp những câu chuyện phét lác thường ngày của mấy cao thủ này cũng có thể xuất bản thành một cuốn sách cực dày.

Những câu chuyện bịa như thật thường được các tay tổ nói phét kể với bộ mặt tỉnh bơ: “Tớ đội mâm xôi, gà chạy quýnh quáng ra đình làm lễ. Ra đến đình chả thấy xôi gà đâu nữa. Quay lại thì thấy gà và xôi treo lủng lẳng trên cành tre. Thì ra đôi cánh gà xếp chéo bị mắc vào cành tre nhưng vì xôi dẻo quá nên cả ván xôi vẫn dính chặt vào mình gà và treo lơ lửng trên cành tre”.

Một câu chuyện khác: “Ruộng nhà em hôm qua còn xanh mơn mởn thế mà nay đã rũ nát thế này. Nhìn ruộng lúa mà đau đứt ruột. Vớ được con bò ấy thì em cho một dùi.

Nhưng tìm mãi chẳng thấy bò mà chỉ thấy một con cua. Con cua giơ cái càng ra cắp, em đành phải lấy cái thừng to buộc vào càng nó. Nó lôi em đi, em lôi lại, cái càng gãy khực. Em quẳng càng xuống ao rửa. Chỉ một cái càng thôi mà nấu được nồi mười canh đặc”.

Chuyện nữa: “Hôm em đi làm cỏ lúa, may thay em vồ được con cá rô, em giắt vội vào cạp váy, em mang nó về, mời bố chồng em và cả ông trẻ đến nhắm rượu. Cả hai người uống hết hai chai, ăn uống no nê mà con cá vẫn không phải dở mình”. 
 

Chết cười với ngôi làng: "Văn Lang cả làng nói khoác"

.Có thể nói Văn Lang cả đất, cả người đều vui tính, hòa nhã. Cái hài hiển hiện trên từng vóc dáng, con người Văn Lang. Nhìn những đứa trẻ, nhìn ông già bà lão, ai ai cũng thấy chất hài.


Ông Hán Văn Sinh được người dân bầu là “cao thủ” nói khoác nổi tiếng nhất Văn Lang (Tam Nông, Phú Thọ). Ông cũng là người sáng tác được nhiều chuyện hài nhất.

Ông Sinh cho hay, tính hài hước của người Văn Lang bắt nguồn từ quá trình lao động vất vả, cực nhọc. Nỗi cực nhọc này còn đi cả vào thơ ca: “Dù ai đi ngược về xuôi/ Váy ngắn quá gối là người Văn Lang”, hay: “Ăn cơm với chồng mới được nửa bữa/ Ngủ với chồng chỉ được nửa đêm”.

Chết cười với ngôi làng: "Văn Lang cả làng nói khoác"
Cảnh trong phim Tết Văn Lang cả làng nói phét. 

Xưa kia, nơi đây còn là rừng rú, cha ông tổ tiên đến khai hoang vất vả cực nhọc nên phải mượn tiếng cười, sự hài hước để xua tan mệt nhọc, để yêu đời, yêu cuộc sống hơn. Tiếng cười của người Văn Lang mộc mạc, dễ hiểu, hồn nhiên trước những thành quả lao động, trước những cảnh ngộ éo le, tật xấu, có cả sự thông minh, láu lỉnh mà chỉ ở người nông dân mới có.
Chó còn mừng nữa là tao

Một anh chàng nhác nên giả ốm, kêu mệt rồi nằm nhà. Nhưng chị vợ vừa đi làm, anh ta đã vùng dậy rang ngô chén. Ngô vừa chín đã thấy tiếng vợ nheo nhéo gọi ngoài cổng. Thì ra vì chị vợ bỏ quên cái nón nên quay về lấy. Bí quá, anh chồng đổ tất ngô đang nóng vào túi quần. Bỏng quá, anh chàng vừa chạy ra mở cổng vừa nhảy tâng tâng. Chị vợ thấy lạ bèn hỏi: “Phải gió hay sao mà cứ nhảy cẫng lên thế?”. Anh chàng nhăn nhở cười: “Hay chửa, thấy mẹ mày về, chó còn mừng nữa là tao”.
Cụ Trần Văn Thuộc kể

Cười để bộc lộ tâm tính lạc quan của người nông dân trước cuộc sống vất vả thường nhật. Tiếng cười còn thể hiện sự đấu tranh chống lại thói hư, tật xấu trong nội bộ nhân dân bằng thái độ đả kích nhẹ nhàng, độ lượng, khoan dung.

Tiếng cười Văn Lang bồi bổ thêm tinh thần lạc quan từ thời mở nước, dựng nước và nó làm mềm dẻo, bền dai hơn cho cuộc sinh tồn của nhân dân vùng mở nước, luôn luôn phải vượt lên đầu mọi cái khó.

Tác giả của những câu chuyện cười Văn Lang đều là người nông dân chân chất và đề tài hài hước của họ đều xoay quanh những cái ăn được: “Củ sắn to, dài đâm xuyên quốc lộ 24A, gốc ở Văn Lang, củ dài tới tận làng Cổ Tuyết”; “Quả nhãn to, cùi dày đến nỗi bổ ngập dao phay”; “Con ếch cốm buộc vào cối xay để nó xay lúa”; “Quả cau to bằng quả dừa”; “Bưởi rụng làm chết trâu”; “Vỏ quả đu đủ làm xuồng chạy lũ”; “Tôm đầm to như con chó vàng, chặt đầu, chặt đuôi cho vào nồi mười luộc mà vẫn nhảy ra ngoài được”; “Con ong mập đến nỗi cột dây vào chân nó, nó bay kéo cả người về tổ lấy mật”; “Văn Lang bắt được con lươn/ Thịt mang nướng chả, còn xương đẽo cày”...

Có thể nói Văn Lang cả đất, cả người đều vui tính, hòa nhã. Cái hài hiển hiện trên từng vóc dáng, con người Văn Lang. Nhìn những đứa trẻ, nhìn ông già bà lão, ai ai cũng thấy chất hài.

Chết cười với ngôi làng: "Văn Lang cả làng nói khoác"
Người Văn Lang mượn tiếng cười để quên đi vất vả, cực nhọc của cuộc sống. 

Khuôn mặt người Văn Lang cứ quắt lại, hàm răng thì vẩu ra, đàn bà ánh mắt lúc nào cũng lúng la lúng liếng, rồi cái miệng xinh xinh lúc nào cũng chực nở nụ cười. Nhìn ai cũng có thể cười chứ chưa cần nói chuyện hay tiếp xúc với họ.

Những mẩu chuyện cười được sáng tác dựa trên những tính cách, những việc làm, những sự việc xảy ra hàng ngày trong làng. Với mỗi nhân vật vui tính trong làng đều có cả chùm chuyện cười nhân dân truyền miệng về họ.

Chết cười với ngôi làng: "Văn Lang cả làng nói khoác"
Sau mỗi buổi lao động mệt nhọc, người Văn Lang lại kể chuyện hài cho nhau nghe. 

Chẳng hạn như chùm chuyện cười về bà trẻ Nghệ (tên thật là Nguyễn Thị Nghĩ), ông Cù Đình Nghễ, ông Tình Thực, cụ Khoác... Những nhân vật này nói chuyện rất có duyên và dễ gây cười.
Bác mua đi, nỏ lắm!

- Bác ơi! Bác mua gánh củi này cho cháu đi!
- Củi của cô còn tươi nguyên thế này mua làm gì? Tôi cần củi đun ngay nên phải mua củi khô.
- Nhưng củi khô thì bác đem về thế nào được ạ?
- Tôi đèo xe đạp chứ!
- Thế thì cháy xe đạp mất!
- Sao cơ?
- Bác ở xa nên không biết rồi! Củi làng cháu nỏ lắm bác ạ. Hễ củi khô là nó tự cháy, đặt đâu cháy đấy, không kịp châm lửa đâu, nên chỉ đun củi tươi thôi. Thật đấy, bác mua đi. Nỏ lắm!
Quỳnh Hoa kể

Chẳng hạn như bà trẻ Nghệ có tính tham ăn lại hay giả vờ. Một hôm bà trẻ Nghệ đến nhà cháu nội chơi, đứa cháu hỏi:

- Bà trẻ khỏe không?

- Tao ốm lắm, hôm qua ho 500 lần, đứa quạt, đứa thổi than.

- Sao lại vừa sưởi ấm, vừa quạt mát thế?

- Thì nó nóng trong bụng, rét ngoài da!

Hễ bà trẻ Nghệ sai con cháu đi hầm gà là bà luôn dặn: “Chớ có chọc đũa vào, đắng lắm, tao không ăn được...”. Có vô vàn những câu chuyện cười vỡ bụng quanh chuyện bà dặn con cháu hầm gà.

Câu chuyện nổi tiếng nhất, ai cũng thuộc, về ông Cù Đình Nghễ và bà Nghệ, như sau: Ông Cù Đình Nghễ đi thả diều. Diều đứt dây, dây rớt xuống mương, ông Nghễ cởi quần áo nhảy xuống thì diều lại bay mất.

Cứ thế ông Nghễ trần truồng đuổi theo diều mà quên mất rằng mình không mặc quần áo. Khi bọn trẻ cười rũ rượi thì ông mới sực nhớ.

Gặp mấy mà đi chợ, ông nhảy đại xuống mương, dầm mình không dám lên.

Lúc đó, bà trẻ Nghệ đi chợ qua. Chả là bà có con lợn nuôi mấy tháng không lớn, bà quyết định đem bán.

Khi qua chỗ ông Nghễ đang dầm mình thì cái sọt thủng, con lợn nhảy xuống mương. Ông Nghễ bắt hộ rồi cầm lên cho bà mà quên rằng mình đang cởi truồng.

Bà trẻ Nghệ xấu hổ quay đi, chỉ dám quờ tay để nhận lại lợn. Không ngờ bắt ngay phải của quý của ông Nghễ, thế là bà la lên: “Ối giời, con lợn nhà em độ này chóng lớn quá! Thôi, em chả đem bán nữa”.
Ớt Văn Lang

- Bác mua ớt hử, mua đi, ớt Văn Lang chúng em đấy, cay rõ là cay.
Người bán hang mời chào. Người mua hàng nhặt quả ớt lên định nếm. Người bán hàng vội ngăn lại:
- Chọn ớt chớ có ngửi. Ớt làng em cay lắm. Bác ngửi một ít cũng cay sộc lên tận óc. Hít hai tý là hắt hơi suốt ba ngày, mà ăn một chút xíu cũng cay đến rụt đầu lưỡi. Mà có khi lại cấm khẩu nữa chứ.
- Gớm, ớt Văn Lang cay thế thì bố ai dám mua.
Phan Thị Định kể


Cụ Sinh kể rằng, cách đây mấy năm, trong một hội thảo quốc tế về văn hóa dân gian được tổ chức tại Phú Thọ, cụ Sinh là người thay mặt hơn 5 ngàn dân xã Văn Lương đi dự.

Hôm ấy, có cả đại biểu của xứ Gabrôvô. Các đại biểu đã có hơn một tiếng đồng hồ cười xả láng khi cụ Sinh đăng đàn kể chuyện. Trong giờ nghỉ, đại biểu vùng Gabrôvô đến gặp cụ Sinh và nói rằng: “Truyện cười Gabrôvô và truyện cười Văn Lang đều có nét đặc sắc riêng. Nét đặc sắc của các bạn là đề tài vừa phong phú lại vừa sát thực với đời sống nông thôn”.

Cụ Sinh bảo, có thể đó là lời khen tặng xã giao song cũng không phải không cái có cái đúng. Tuy nhiên, người dân vùng Gabrôvô được hưởng lợi rất nhiều từ du khách bốn phương muốn tò mò tìm hiểu xứ sở hài hước nổi tiếng.

Đấy là cụ Sinh chân thành kể vậy. Còn có đại biểu của xứ Gabrôvô sang Phú Thọ hay không thì tôi chưa chứng thực.

Truyện cười là đặc sản văn hóa lâu đời của người dân Văn Lang, vô cùng đặc sắc, song lại đang có nguy cơ bị lãng quên dần.

Chết cười với ngôi làng: "Văn Lang cả làng nói khoác"
Phóng viên ghi chép những mẩu chuyện cười của người Văn Lang. 

Chủ tịch xã Hán Văn Tuấn buồn bã: “Chúng tôi cũng muốn mỗi năm tổ chức thi kể truyện cười, dàn dựng tiểu phẩm, quay video để giữ lại chút tinh túy của cha ông và truyền chất văn nghệ cho lớp trẻ song khó tìm kinh phí quá.

Trước kia, cũng vì cái nghèo mà cha ông đã tạo nên chất hài Văn Lang thì giờ đây, vẫn cái nghèo đã khiến chúng tôi đánh mất dần di sản quý báu đó”.

Người dân ở Văn Lang còn nghèo. Họ không biết tổ tiên từ đâu đến đây. Cuộc sống biệt lập, gắn bó với thiên nhiên nên tính tình phần nhiều chân chất. Họ sống gắn bó, yêu thương nhau và cực kỳ hiếu khách. Nói quá ở Văn Lang không hại ai mà chỉ để làm cuộc sống thêm vui nhộn.
.
Hội Hồ Hởi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét