Thứ Năm, 12 tháng 1, 2017

Dũng tướng Việt mới bỏ mũ ra, hàng trăm, ngàn quân địch đã hoảng hốt quỳ xuống xin hàng

Lê Tiên Long 
Dũng tướng Việt mới bỏ mũ ra, hàng trăm, ngàn quân địch đã hoảng hốt quỳ xuống xin hàng

Trong lịch sử có những vị tướng chiến công hiển hách, uy danh lẫy lừng khiến đối phương nghe danh mà khiếp sợ, một trong những người như vậy là tướng quân Lê Khôi.

Vị tướng cả đời Bắc chiến Nam chinh
Theo chính sử, tướng quân Lê Khôi là cháu gọi Lê Lợi (Lê Thái Tổ) là chú ruột, tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ngay từ buổi đầu, trải hơn 10 năm kháng chiến gian khổ đã lập nhiều công lao, đặc biệt trong các trận Khả Lưu, Xương Giang làm quân Minh bạt vía kinh hoàng.
Theo sách Đại Việt thông sử, anh em Lê Thái Tổ có ba người, vua là con út trong nhà; người anh thứ hai tên là Lê Trừ sinh được hai người con trai đều theo chú là Lê Lợi khởi nghĩa chống giặc Minh, con trưởng là Lê Khang, con thứ là Lê Khôi.
Sách Lịch triều hiến chương loại chí viết về Lê Khôi như sau: 
"Ông người làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên [Thanh Hóa], con anh thứ hai của Lê Thái Tổ, sinh ra có dáng lạ, người thanh nhã, trọng hậu, ít nói cười, đàn bà trẻ con trong làng xóm đều biết tiếng.
Mùa xuân Mậu Tuất (1418), ông theo đầu tiên dưới lá cờ nghĩa, mình đeo bên tả túi tên, bên hữu túi cung, theo vua ra hàng trận, công lao rực rỡ. Trận đánh ở Khả Lưu ông cùng bọn Lê Sát lên trước vây đánh phá tan quân Minh, bắt sống đô đốc Chu Kiệt, chém tướng tiên phong Hoàng Thành, bắt được giặc nhiều không kể xiết.
Mùa xuân Đinh Mùi (1427), ông cùng Phạm Vấn đem vài nghìn binh giúp bọn Lê Sát đánh tan Thôi Tụ, Hoàng Phúc ở Xương Giang, bắt sống Tụ, Phúc và mấy vạn quân địch, dẹp yên giặc Minh, khôi phục lại Đông Đô.
Dũng tướng Việt mới bỏ mũ ra, hàng trăm, ngàn quân địch đã hoảng hốt quỳ xuống xin hàng - Ảnh 1.
Dũng tướng Lê triều (Hình minh họa – Nguồn: lichsuvietnam)
Vì có công, ông được phong Kỳ lân hổ vệ Thượng tướng quân, tổng quản hành quân, nhập nội Thiếu úy; sau lại thăng Tư mã, đeo kim phù rất vinh hiển.
Năm thứ 3 Thuận Thiên (1430), vua thấy nước nhà mới định, miền người man chưa theo, đất châu Hóa giáp nước Chiêm, muốn ủy cho một chức quan trọng yếu trấn thủ, mới sai ông cầm quân tới trấn.
Khi đến, ông bãi trạm gác, bỏ sự xét hỏi nghiêm ngặt; chỉ chăm chiêu mộ những dân lưu tán, khuyên bảo làm ruộng trồng dâu; huấn luyện quân sĩ, giữ vững bờ cõi, chính sự nghiêm mà có tin nên được dân kính yêu.
Đường biển ngày một yên ổn; người Chiêm sợ uy, mến nghĩa. Dân ở biên giới có nhiều người bị bắt, ông đều đãi tử tế cho về. Mỗi khi có cống sứ sang, thường thường hỏi thăm ông có được bình yên, khỏe mạnh hay không. Đức vọng của ông vang lừng đến các nơi di địch là như thế".
Sử sách cũng chép rằng, Lê Khôi từng được triều đình triệu từ châu Hóa (thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) để về cầm quân đánh dẹp nổi loạn ở châu Thạch Lâm thuộc Thái Nguyên, lần đó ông cũng bắt diệt được hết kẻ cầm đầu.
Đến tháng 9 năm Qúy Sửu (1433) vua Lê Thái Tông nối nghiệp, Lê Khôi vừa là họ thân, lại có tài nên rất được coi trọng, được phong làm Nhập nội Tư mã, tham tri chính sự vào năm Đinh Tị (1437), hai năm sau theo vua đi đánh Ai Lao thắng lợi.
Về sau lại đánh phản loạn ở châu Thuận Mỗi (thuộc Sơn La, Lai Châu ngày nay), khi trở về, triều đình "định công lao, tiến phong ông làm Nhập nội đô đốc, cho tham dự triều chính, việc to việc nhỏ đều hỏi ở ông mới quyết định" (Lịch triều hiến chương loại chí).
Năm Qúy Hợi (1443) đời vua Lê Nhân Tông, Lê Khôi được phong làm Nhập nội Thiếu úy, được cử trấn thủ Nghệ An.
Khi ông đến, sĩ phu và dân chúng xứ Nghệ đứng chật hai bên đường chào đón, vui mừng reo hò mà nói rằng: "Chúng tôi mong chờ ngài từ lâu rồi! Nay ngài đến, thật là trời giáng phúc cho dân chúng tôi".
Dưới sự quản lý của ông, xứ Nghệ An rất yên ổn, sách Lịch triều hiến chương loại chí cho biết: "Chính sự công bình, việc kiện cáo đâu vào đấy, mùa được, dân khỏe. Tiếng ca tụng công đức của ông vang khắp các đường ngõ. Bởi vì ông là người gần dân, đức và chính của ông được dân tin đã lâu, cho nên cả vùng yêu mến ông và đều vui vẻ".
Chiến tích kỳ lạ: Bỏ mũ cho xem mặt, đối phương không đánh mà tan
Chính sử chép rằng, tháng 5 năm Giáp Tý (1444) vua Chiêm là Bí Cai dẫn quân tràn sang cướp phá châu Hóa, triều đình sai tướng dẫn quân đi đánh.
Đến tháng 4 năm Ất Sửu (1445) quân Chiêm lại vào cướp thành An Dương ở châu Hóa, Lê Khôi được lệnh thống suất quân lính Nghệ An tăng viện cho quân triều đình đánh tan giặc, ông được thăng chức Nhập nội tham dự triều chính nhưng vẫn lưu lại Nghệ An.
Nhằm dập tắt mầm họa từ phương Nam, năm Bính Dần (1446) triều đình sai Đô đốc Lê Thụ, Lê Khả và Thiếu phó Lê Khắc Phục đem quân đánh Chiêm Thành.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép ngắn gọn về chiến dịch Nam chinh này, theo đó vào ngày 23 tháng 2 cùng năm, "các quân của bọn Lê Thụ đến các xứ Ly Giang, Đa Lang, Cổ Lũy, mở thông đường thủy, dựng đắp thành lũy để đánh nhau với giặc, phá tan giặc, thừa thắng đánh thẳng đến cửa biển Thi Nại.
Mùa hạ, tháng 4, ngày 25, các quân của bọn Lê Thụ tiến công thành Chà Bàn phá tan quân giặc, bắt được chúa nó là Bí Cai và các phi tần, bộ thuộc, ngựa voi vũ khí, cùng các hàng tướng rồi đem quân về".
Dũng tướng Việt mới bỏ mũ ra, hàng trăm, ngàn quân địch đã hoảng hốt quỳ xuống xin hàng - Ảnh 2.
Không đánh mà đối phương quy hàng (Hình minh họa – Nguồn: lichsuvietnam)
Sử sách ghi chép rất ngắn gọn, nhưng các nguồn tư liệu khác cho hay, Lê Khôi là người lập công lớn trong trận này, bấy giờ được lệnh dẫn quân tiên phong, "ông đem binh bản bộ tiến trước, xông phá tan đồn quân ở trên, vượt Ly Giang, đến cửa biển Thi Nại, rồi vượt biển đến đất giặc. Tướng giặc biết là quân của ông, gọi sang hỏi: "Có phải ông Tư mã đấy chăng?".
Ông liền bỏ mũ trụ ra để cho chúng thấy mặt. Giặc đều xuống ngựa sụp lạy, mang biếu sản vật, rồi không dám đánh lại ông nữa. Ông đến đâu, giặc tan vỡ đến đấy. Sau đó lại đánh thành Đồ Bàn, bắt được chúa là Bí Cai rồi rửa giáp thu quân về" (Lịch triều hiến chương loại chí).
Trên đường ca khúc khải hoàn, dọc đường Lê Khôi bị bệnh nặng, tướng sĩ ra sức chạy chữa nhưng ông không qua khỏi và mất tại chân núi Long Ngâm (gần cửa biển Nam Giới, Hà Tĩnh), lúc đó tướng sĩ đau buồn kêu khóc thảm thiết.
Tin báo về triều, vua thương xót bãi triều 3 ngày, lại sai quan vào phúng viếng, truy phong ông chức Nhập nội đô đốc, đặt tên thụy là Trung Hiển. Sau lại truy tặng chức Nhập nội kiểm hiệu tư không, Bình chương sự, đổi tên thụy là Vũ Mục công.
Dân chúng châu Hoan nhớ công ơn của ông đã lập đền thờ phụng ngay tại chân núi Long Ngâm.
Năm Qúy Mùi (1463), Lê Thánh Tông sai Thượng thư Nguyễn Như Đỗ soạn văn bia ghi công đức của ông, lại gia phong tước vương nên người đời gọi ông là Chiêu Trưng vương; nhà vua còn làm bài thơ Nôm ca ngợi ông như sau:
Dẹp yên tám cõi mới buông tay,
Rỡ rỡ thai tinh một áng mây.
Tể tướng bếp tàn mai lạnh vạc,
Tướng quan dinh vắng liễu chau mày.
Phong lưu, phú quý ba đời thấy,
Sự nghiệp công danh bốn biển hay.
Thương ít, tiếc nhiều bao xiết kể,
Miếu đường hầu lấy cột nào thay.
Năm Mậu Dần (1638) vì thấy đền thờ ông bị hư hỏng, do dựng ở gần biển, sóng gió bất thường nên dân chúng dời đền về dựng ở dưới chân núi Lam Thành, thuộc xã Trào Khẩu, huyện Hưng Nguyên (Nghệ An).
Tương truyền đền thờ Lê Khôi rất thiêng, "những khi gặp hạn, lụt, tật dịch, dân địa phương đến cầu đều có ứng nghiệm" (Lịch triều hiến chương loại chí); sách Bách thần sự tích cũng viết rằng Lê Khôi "sau khi mất, hiển ứng… cầu khấn nhiều lần linh ứng, các triều đại đều có sắc phong được ban quốc tế".
Ngôi đền thờ ông ngoài tên gọi là đền Vũ Mục còn có tên khác là đền Chiêu Trưng, dân gian truyền rằng đây là một trong bốn ngôi đền lớn, có kiến trúc đẹp và linh thiêng nhất xứ Nghệ: "Đền Cờn, đền Qủa, Bạch Mã, Chiêu Trưng".
Tài liệu tham khảo:
1. Bách thần sự tích (Khuyết danh) – NXB Đại học Vinh, 2015
2. Các vị thần thời Lê sơ (Vũ Thanh Sơn)- NXB Quân đội nhân dân, 2012
3. Đại Việt thông sử (Lê Qúy Đôn) – NXB Văn hóa thông tin, 2007
4. Đại Việt sử ký toàn thư (Các sử thần triều Lê) – NXB Văn hóa thông tin, 2006
5. Người trong sử cũ (Nguyễn Bích Ngọc, Phạm Minh Thảo)- NXB Văn hóa thông tin, 2006
6. Nghệ Tĩnh trong Tổ quốc Việt Nam (Trần Thanh Tâm, Ninh Viết Giao) - Ty giáo dục Nghệ An, 1975
7. Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú) – NXB Trẻ, 2014
8. Võ tướng Việt Nam (Vũ Ngọc Khánh) – NXB Văn hóa thông tin, 2007
theo Trí Thức Trẻ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét