Thứ Hai, 31 tháng 12, 2018

Hào khí người anh hùng làng chài

Lớn lên giữa vận nước lâm nguy

  •  
Cách đây 150 năm, ngày 27/10/1868 (nhằm ngày 12/9 năm Mậu Thìn), có một người dù “thất thế nhưng vẫn hiên ngang” bước lên đoạn đầu đài, đón nhận cái chết đầy dũng khí, để lại cho hậu thế 2 chiến công oanh liệt “Hỏa hồng Nhựt Tảo” và “Kiếm bạt Kiên Giang” đi vào lịch sử cùng câu nói bất hủ thể hiện ý chí chống ngoại xâm đến cùng của dân tộc Việt Nam: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.
Ngày 17/02/1859, giặc Pháp tiến đánh thành Gia Định, mở màn việc xâm chiếm Nam kỳ. Phòng tuyến Đại đồn Kỳ Hòa được dựng lên để bao vây địch đánh lan ra phía Tây. Nguyễn Trung Trực năm ấy vừa 21 tuổi, gia nhập đạo quân đồn điền do Phó Lãnh binh Gia Định Trương Định lãnh đạo cùng các đội quân ứng nghĩa về tham gia vào mặt trận phòng tuyến Đại đồn chống giặc.
Người con làng chài
Nguyễn Trung Trực có tên là Nguyễn Văn Lịch, còn gọi là Chơn, sinh năm 1838 (cũng có ý kiến cho rằng là năm 1839, vì theo lời khai của ông với thực dân Pháp lúc bị bắt (năm 1868) là ông 30 tuổi mà thế hệ ông bà ta luôn dùng âm lịch), trong gia đình sống nhiều đời bằng nghề chài lưới ở Xóm Nghề, thôn Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay thuộc ấp 1, xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức). Sách Địa bạ Nam kỳ (Nguyễn Đình Đầu, 1994) ghi: “Thôn Bình Nhựt ở xứ Bả Tân”, nghĩa là bến, xóm mới, nơi ở mới của những người làm nghề bả trạo (tức nghề cầm dầm, chèo, đánh bắt cá vùng sông nước...). Xóm Nghề là nơi sinh của Nguyễn Trung Trực cũng là nơi họ tộc của ông sinh sống nhiều đời, là hậu duệ của lưu dân từ miền Trung vượt biển vào Nam xây dựng cuộc sống mới trong cuộc Nam tiến của cha ông ta hơn 3 thế kỷ trước.
Nội tổ của Nguyễn Trung Trực là Nguyễn Văn Đạo, vốn là ngư dân ở xóm Lưới (ven biển), Phù Cát, phủ Quy Nhơn (nay thuộc thôn Vĩnh Hội, xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định), vào lập nghiệp, định cư trong thời khởi nghĩa Tây Sơn, là một trong những người đầu tiên có công khai phá, lập nên Xóm Nghề. Đến đời thân sinh của ông - ông Nguyễn Văn Phụng (Thăng), gia đình đã khá giả, có uy tín trong vùng. Hiện nay, tại Xóm Nghề còn con rạch tên rạch Ông Thắng mà nhiều người cho rằng đó là biến âm của “ông Thăng”, tức cha của Nguyễn Trung Trực.
Ngày 10/12/1861, Nguyễn Trung Trực chỉ huy nghĩa quân làm nên chiến công vang dội đốt cháy tiểu hạm L’Espérance
Ngày 10/12/1861, Nguyễn Trung Trực chỉ huy nghĩa quân làm nên chiến công vang dội đốt cháy tiểu hạm L’Espérance
Gia đình Nguyễn Trung Trực làm nghề lái rỗi, xuôi ngược trên sông nước Nam bộ vốn thường bị “bối” (trộm cướp đường sông), gốc gác ở Bình Định vốn có truyền thống võ nghệ. Nguyễn Trung Trực lại sớm bộc lộ tính cách hiếu động, sự thông minh, ham thích võ nghệ nên ông được gia đình cho học cả văn lẫn võ tại một lò võ ở vùng kênh Bảo Định (nay thuộc TP.Tân An), xứ sở của quân Đông Sơn với căn cứ Ba Giồng nổi tiếng giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, chung với Huỳnh Văn Tấn (sau này là tay sai đắc lực cho Pháp) và nhanh chóng nổi tiếng, 16 tuổi đã thượng đài. Do tính tình chân chất, cương trực, khẳng khái, giàu lòng nghĩa hiệp, hay cưu mang, giúp đỡ người khác nên thầy đặt tên là “Trực”.
Bấy giờ, phủ lị Tân An đóng tại chợ Cai Tài (nay thuộc xã Quê Mỹ Thạnh, huyện Tân Trụ), thường tổ chức các cuộc thi nên có câu ca dao:
Bảng treo trước chợ Cai Tài,
Bên văn bên võ, ai có tài ra thi.
Năm 18 tuổi, ông thượng võ đài tại đây và giữ võ đài suốt 3 ngày liền nên tiếng tăm càng thêm vang dội. Ông lại thường giao du rộng rãi với hào kiệt trong vùng nên sớm có uy tín. Thế nhưng, ông không hề kiêu căng mà rất mực điềm đạm..., như Nguyễn Thông (1827-1884) đánh giá trong Hồ Huân Nghiệp truyện là “Nguyễn Lịch tính thâm trầm nghiêm nghị và can đảm”.
Xóm Nghề nằm trên doi đất phía hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông, ở giao điểm giữa 2 tuyến đường thủy và đường bộ quan trọng số 1 từ Sài Gòn - miền Tây, đối diện (bên kia bờ sông Vàm Cỏ Đông) với một “tiểu kinh kỳ” Phước Tú (chợ Bến Lức), “Quán xá trù mật, thuyền bè qua lại tạm dừng để đợi nước lên để đi tiếp”, là nơi đặt huyện đường Tân Long, có trạm thu thuế đường sông Lật Giang (sông Bến Lức) có số thu lớn nhất Nam kỳ... nên người dân ở đây bộc lộ đầy đủ tính cách phóng khoáng và trượng nghĩa Nam bộ: Bến Lức này khác thể kinh kì/ Một con nước thì ra tới vịnh/ Bây giờ định tính/ Mặc sức lái bạn ăn chơi (Vè lái rỗi).
Phải chăng, vùng đất đầy chất phóng khoáng Nam bộ của những con người mang trong mình một hành trang tinh thần bất khuất vượt chông gai đi tìm đất mới; truyền thống võ nghệ của quê hương, gia đình, tinh thần yêu nước và tố chất thủ lĩnh của Nguyễn Trung Trực đã làm nên huyền thoại Anh hùng dân chài về sau này.
Trở thành anh hùng nông dân áo vải
Sau khi Đại đồn thất thủ (25/02/1861), quân triều đình rút về Biên Hòa, từ đây, nhiệm vụ đánh giặc, cứu nước đặt lên vai những người “dân ấp, dân lân mến nghĩa làm dân chiêu mộ”. Trương Định đưa quân về Gò Thượng ở Tân Hòa, Gò Công để củng cố. Cánh quân của Nguyễn Trung Trực thì hoạt động ở khu vực Tân An. Sớm bộc lộ tài năng, đức độ của một thủ lĩnh xuất sắc trong hàng ngũ nghĩa quân nên ông được giữ chức Quyền sung Quản binh đạo, gọi tắt là Quản binh (cai quản khoảng 50 binh) nên gọi là Quản Lịch hay Quản Chơn.
Chiếm được đầu não Sài Gòn, quân Pháp theo đường kênh Bảo Định tiến đánh và dù chiếm được thành Định Tường (12/4/1861) nhưng đã bị Nguyễn Trung Trực chỉ huy mặt trận này gây thiệt hại to lớn khi Trung tá chỉ huy là Bourdais và 30 lính Pháp bị giết, làm cho người Pháp phải than thở: “Chưa có cuộc hành quân nào ở Nam kỳ mà mệt nhọc và bị nhiều người chết chóc bằng cuộc hành quân này... Đó là cuộc chiến đấu liên miên cả ngày lẫn đêm...” (Sách Tân An ngày xưa [Đào Văn Hội, 1972]).
Ngày 10/12/1861, Nguyễn Trung Trực chỉ huy nghĩa quân làm nên chiến công vang dội đốt cháy tiểu hạm L’Espérance (Hy Vọng) trên Vàm Nhựt Tảo (nay thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ) mà người Pháp gọi là “Ấn tượng của biến cố bi đát” (Paulin Vial, tác giả sách Les premières années de la Cochinchine [Những năm đầu tiên ở Nam kỳ]), “Một biến cố bi thảm đã gây nên một niềm xúc động sâu sắc nơi người Pháp và kích thích một cách lạ lùng trí tưởng tượng của người An Nam” (Alfred Schreiner, một tác giả Pháp nghiên cứu lịch sử giai đoạn này). Với ta, chiến công lần đầu tiên bằng vũ khí thô sơ và mưu trí đã tiêu diệt được chiến hạm của Pháp được trang bị vũ khí hiện đại tác động mạnh mẽ đến tinh thần chiến đấu của nghĩa quân, từ nay, nghĩa quân không xem tàu chiến Pháp là bất khả xâm phạm. Sau trận này, tên Nguyễn Văn Lịch được đổi thành Nguyễn Trung Trực.
Một năm sau (12/1862), một tiểu hạm khác của Pháp đậu tại đầu vàm sông Bến Lức bị tấn công, dù địch kịp thời dùng súng bắn đá, bắn đạn sắt khiến nghĩa quân phải rút quân nhưng hết sức hoang mang, như Paulin Vial nhận định: “Những cảnh ghê gớm ấy đều là kết quả của những âm mưu của quân địch”. Sau đó, ngày 16/12/1862 (có tài liệu ghi là 17), “Ba chiếc tiểu hạm đậu trên sông Vàm Cỏ Đông để kiểm soát sự lưu thông trên sông ấy, bị tấn công thật tình dữ dội bởi những lũ người đông đảo vì họ bị nung đốt do kỷ niệm tàu L’Espérance phát hỏa. Một trong ba chiếc ấy, chiếc số 3, đậu trên mé nguồn sông, dưới Tây Ninh một đỗi, bị công hãm bởi nhiều ghe có bố trí súng thần công. Viên hậu tuyển sĩ quan chỉ huy chiếc này bị thương, nhưng bắt đặng 3 ghe địch”. Paulin Vial đã nhấn mạnh chính Nguyễn Trung Trực - “Người đã điều khiển cuộc tấn công tàu L’Espérance” đã chỉ huy các cuộc tấn công này.
Sau khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay giặc, Nguyễn Trung Trực chuyển địa bàn về hoạt động ở các tỉnh miền Tây. Giữa năm 1867, ông được triều đình phong chức Thành thủ úy Hà Tiên nhưng chưa kịp đến nơi thì Hà Tiên rơi vào tay giặc. Ông lui về Hòn Chông lập căn cứ chống Pháp và lập nên chiến công hiển hách đánh chiếm đồn Kiên Giang (16/6/1868), lần đầu tiên chiếm và làm chủ một tỉnh lỵ trong một tuần lễ, trước khi bước ra pháp trường Rạch Giá, ngày 20/7/1868 để rồi cái chết hóa thành bất tử với biết bao huyền thoại.
Nếu như người Pháp thực sự bắt đầu nhắc đến Quản Lịch - Nguyễn Trung Trực bằng sự nể nang kể từ sau những chiến công trên đất Long An thì sau trận lấy đồn Kiên Giang, đó là sự khâm phục: “Là một người chỉ huy trẻ tuổi, rất can đảm, chống nhau với ta ngót tám năm trời” (Paulin Vial) - điều mà có lẽ trước đó chưa thấy họ dành cho vị thủ lĩnh nghĩa quân nào trong phong trào võ trang chống Pháp nửa cuối thế kỷ XIX. Sự khâm phục của người Pháp còn ghi nhận trong suốt thời gian Nguyễn Trung Trực bị giam cầm. Paulin Vial viết: “Vào lúc bị bắt và bị giam ở ngục thất Sài Gòn, Nguyễn Trung Trực đã tỏ ra rất tự trọng và có nhiều nghị lực...”. Alfred Schreiner cũng nhận định: “Trong suốt thời kỳ bị giam cầm, ông Trực không có lúc nào tỏ ra yếu đuối cả, một cách thẳng thắn và đàng hoàng, ông công nhận các chiến công của ông và cũng nhận là đã khinh thường sức mạnh của Pháp. Ngoài ra, ông chỉ yêu cầu ban cho ông một ân huệ, ấy là được xử tử ông ngay tức khắc”. Nhận thấy ở Nguyễn Trung Trực một người trung hiếu, nghĩa khí và có ảnh hưởng rất lớn đến phong trào chống Pháp ở Nam kỳ nên giặc đưa ra nhiều lời chiêu dụ, hứa hẹn chức tước, bổng lộc nhưng chúng chỉ nhận được sự dứt khoát của ông: “Nếu có chức vụ nào giết hết Tây dương cướp nước thì ta nhận chức đó”.
Vốn sinh ra không phải để làm anh hùng nhưng vận nước đã làm cho người thanh niên dân chài Nguyễn Trung Trực vượt lên thường tình, mạnh hơn cái chết, trở thành hình ảnh tiêu biểu của người nông dân Việt Nam anh hùng./.

“Chi nài sắm dao tu nón gõ” (*)


Cách đây 150 năm, ngày 27/10/1868 (nhằm ngày 12/9 năm Mậu Thìn), có một người dù “thất thế nhưng vẫn hiên ngang” bước lên đoạn đầu đài, đón nhận cái chết đầy dũng khí, để lại cho hậu thế 2 chiến công oanh liệt “Hỏa hồng Nhựt Tảo” và “Kiếm bạt Kiên Giang” đi vào lịch sử cùng câu nói bất hủ thể hiện ý chí chống ngoại xâm đến cùng của dân tộc Việt Nam: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.
Nguyễn Trung Trực theo tiếng gọi non sông tham gia vào đội quân đồn điền về ứng nghĩa chống giặc ở phòng tuyến Đại đồn Kỳ Hòa như một lẽ tự nhiên của người trai lớn lên giữa thời loạn. Thế nhưng, không như quan binh triều đình, dù “chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”, “chi nài sắm dao tu nón gõ”, ông chưa hề thất bại trước kẻ thù cho đến trước khi chấp nhận ra mặt để giặc bắt vì thế cùng lực kiệt bởi vận nước trong cơn nguy kịch lúc bấy giờ.
Chuyên gia tập kích
Sau khi quân Pháp chiếm Định Tường (12/4/1861), nhân dân 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ nổi lên chống giặc khắp nơi nên quân Pháp bố trí nhiều tàu tuần tiễu ngày đêm trên các sông, rạch bắn phá, khủng bố, tra xét gắt gao nhằm kiểm soát tình hình nổi dậy, trong đó có tiểu hạm L’Espérance tại vàm sông Nhựt Tảo (nay thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ). Đó là chiếc tàu kiểu Lorcha: “Là loại tàu hay ghe chài bản xứ người ta cho đậu ở nhiều sông, rạch để canh phòng thay thế cho pháo hạm. Thủy thủ đoàn là Pháp quân, do một sinh viên hải quân hay một trung úy chỉ huy. Người ta cho lính Tagal phụ theo lính thủy Pháp. Lính Tagal trở nên thủy binh ưu tú và lính bổn xứ được bố trí xung quanh tàu để canh phòng... Đây là những đồn nổi, không hơn không kém. Lâu nay, chiếc l’Amphytrite đậu ở Gò Công và Gia Thạnh và tiểu hạm L’Espérance ở Vàm Nhựt Tảo. Các tàu này giúp ích nhiều lắm và nhất là đỡ cho các pháo hạm của ta... Tàu được các ghe nhỏ túa ra canh chừng và do thám người An Nam hoạt động xung quanh chỗ tàu đậu” (Paulin Vial). Trên tàu có khoảng 45 người, bao gồm người Pháp, người Tagal và người Việt, có trang bị một khẩu đại bác cùng nhiều vũ khí đa năng. Trên bờ, quân Pháp lập một đồn ở chợ Nhựt Tảo (nay chợ này không còn) với 20 lính tập người Việt đóng giữ, sẵn sàng yểm trợ cho tàu. Tất cả được đặt dưới sự chỉ huy của viên Trung úy trẻ Parfait được đánh giá là tích cực, can đảm, từng được gắn nhiều huy chương vì thành tích quân sự. Tiểu hạm L’Espérance là một tàu gỗ có chỗ được bọc đồng, chạy bằng hơi nước, có thể ra vào những luồng lạch cạn, là một trong những tàu thuộc hàng bậc nhất của hải quân Pháp lúc bấy giờ, xét về trang bị, bố phòng và tương quan lực lượng, đây thực sự là một pháo đài nổi gần như bất khả xâm phạm, đầy thách thức đối với nghĩa quân.
Khách tham quan nhà trưng bày, tìm hiểu về cuộc đời và quá trình hoạt động cách mạng của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Ảnh: Thùy Hương
Khách tham quan nhà trưng bày, tìm hiểu về cuộc đời và quá trình hoạt động cách mạng của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Ảnh: Thùy Hương
Trước tình hình đó, Nguyễn Trung Trực sau khi điều nghiên, xây dựng một kế hoạch tập kích táo bạo nhưng hoàn hảo, do ông chỉ huy cùng với 2 phó quản cơ là Huỳnh Khắc Nhượng, Nguyễn Văn Quang và 59 dân binh. Ngoài ra, còn có sự phối hợp của những người trong bộ máy hành chính địa phương như 2 anh em cai tổng Hồ Quang Minh và hương thân Hồ Quang Chiêu của làng Nhựt Tảo. Sáng ngày 10-12-1861, Nguyễn Trung Trực nghi binh, cho một toán nghĩa quân kéo về kinh Ông Hóng (xã Bình Lãng, huyện Tân Trụ), gióng trống khua chiêng để phân tán lực lượng địch. Parfait là sĩ quan trẻ, háo thắng nên mắc mưu, liền chỉ huy một toán lính rời tàu xuống xuồng nhỏ kéo đi càn quét, để lại một số ít lính Pháp trên tàu. Huỳnh Khắc Nhượng và Nguyễn Văn Quang dẫn hai đội quân men theo bờ sông tiến sát chỗ tàu đậu, chờ lệnh. Đến trưa, Nguyễn Trung Trực cùng 59 nghĩa quân giả làm thuyền buôn (theo Đại Nam thực lục chính biên [Đệ tứ kỉ, Q.26]) tiến thẳng đến tàu Pháp, rồi bất ngờ tấn công vào giữa lúc lính tráng trên tàu đang nghỉ ngơi. Tên hạ sĩ quan Pháp phó chỉ huy tàu bị một ngọn giáo đâm thẳng vào ngực và rơi xuống nước khi cúi xuống định xét giấy tờ. Nguyễn Trung Trực là người đầu tiên lên tàu và 4 tên lính Pháp bị hạ gục ngay tức khắc. Nghĩa quân nhảy lên tàu hò hét vang trời để thị uy. Quân Pháp bị tấn công bất ngờ không kịp trở tay, một số nhảy xuống sông, một số chết ngay trong đợt tấn công đầu. Các đội quân của Huỳnh Khắc Nhượng và Nguyễn Văn Quang chỉ huy được lệnh xáp chiến, một phần tấn công vào đám lính mã tà trên bờ, một phần nhảy lên tàu dùng búa phá tàu nhưng không được bèn nổi lửa đốt tàu. Sau trận đánh, ta diệt 17 lính Pháp và Tagal, 20 tên lính tập trên đồn Nhựt Tảo cũng bị toán quân do hương thân Hồ Quang Chiêu chỉ huy phối hợp nghĩa quân hai phó quản cơ của Nguyễn Trung Trực diệt gọn. Khi Parfait quay trở lại, chỉ tìm được 3 tên lính Tagal trốn thoát nấp trong bụi rậm, không tìm được nghĩa quân nào.
Trận đốt tàu L’Espérance làm cho danh tiếng của Nguyễn Trung Trực vang lừng khắp nơi. Ông được đánh giá là vị chỉ huy chẳng những có võ nghệ cao cường mà trí lược hơn người, chỉ bằng vũ khí thô sơ và mưu trí đã tiêu diệt chiến hạm của Pháp được trang bị vũ khí hiện đại. Chính vì vậy mà quân Pháp cay cú đốt hàng loạt nhà, chặt phá cây cối của làng Nhựt Tảo để trả thù và dựng bia kỷ niệm thất bại ngay tại vàm Nhựt Tảo (bia này đã bị phá bỏ sau năm 1975). Triều đình (Tự Đức) đánh giá rất cao nên mới trợ cấp các gia đình bị thiệt hại và ban thưởng những người tham gia trận đánh. Sách Đại Nam thực lục chính biên (Đệ tứ kỉ, Q.26) ghi rằng: “Vua thưởng cho bọn Lịch, Quản cơ Nhượng, Quang cộng 20 người làm Cai đội, đều cho ngân tiền và thưởng chung cho binh đinh 1.000 quan tiền, 4 người bị chết cấp cho tiền tuất gấp 2 và ấm nhiêu cho con hay cháu gọi bằng chú bác ruột. Lại chẩn cấp cho những nhà thôn ấy bị Tây dương đốt cháy. Thự Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, lĩnh Tuần phủ Định Tường là Đỗ Thúc Tĩnh đều nói trận này là trận xuất sắc nhất, cho nên mới thưởng cho hậu”. Chiến thắng Nhựt Tảo trở thành nỗi ám ảnh của thực dân Pháp và niềm cổ vũ lớn lao cho nghĩa quân, Alfred Schreiner gọi “Đấy là khúc nhạc mở đầu cho một cuộc tổng công kích hầu như toàn bộ các đồn lũy của người Pháp”.
Trước và sau trận đốt tàu ở Nhựt Tảo, cũng bằng chiến thuật tập kích, Nguyễn Trung Trực đã làm cho người Pháp khiếp sợ, mất ăn mất ngủ khi diệt Trung tá chỉ huy Bourdais và 30 lính Pháp ở Bảo Định (4/1961) và hàng loạt các cuộc tấn công tàu địch ở Rạch Tra (Đức Hòa), sông Tra (Gò Công), sông Vàm Cỏ Đông (Bến Lức). Paulin Vial kể: “Ba chiếc tiểu hạm (Iorcha) đậu trên sông Vaico Đông (tức Vàm Cỏ Đông) nhằm kiểm soát sự lưu thông đường thủy, bị tấn công hết sức dữ dội bởi những nhóm người đông đảo, do họ được cổ vũ bởi trận đốt tàu Espérance... Một trong ba chiếc đó, chiếc tiểu hạm số 3. Viên sĩ quan chỉ huy tàu này đã bị thương.” Và Georfes Taboulet thú nhận: “Cuộc nổi dậy bất ngờ bùng nổ vào ngày 16/12/1862 (trận Sông Tra), và chẳng mấy chốc lan rộng ra. Ba chiếc tuần tra và nhiều đồn bót bị đánh chiếm, như đồn Rạch Tra, gần Sài Gòn; trong trận đó, viên Đại úy Thouroude đã tử trận...”.
Đến trận lấy đồn Kiên Giang (16/6/1868) là một đồn lớn ngay trung tâm tỉnh, diệt Chủ tỉnh Chánh Phèn, 5 sĩ quan, 67 lính cả Pháp và quan chức người Việt làm việc cho Pháp, bắt sống 6 tên, thu trên 100 súng và một kho đạn, làm chủ tỉnh lỵ suốt một tuần cho thấy trình độ tập kích của Nguyễn Trung Trực phát triển đến mức cao, từ huấn luyện nghĩa quân, tổ chức lực lượng, chiến thuật táo bạo, thời điểm tấn công khiến địch hoàn toàn bị động,... đã làm cho người Pháp dù biện bạch chống chế cho thất bại này cũng phải thừa nhận: “Thảm họa Rạch Giá là một trong những biến cố đau thương...” (Paulin Vial), “một sự kiện bi thảm” (George Diirrwell).
Tài năng quân sự
Hai trận “Hỏa hồng Nhựt Tảo” và “Kiếm bạt Kiên Giang” cho thấy tài năng quân sự của Nguyễn Trung Trực. Ở trận Nhựt Tảo, Nguyễn Trung Trực nắm bắt tình hình địch rất kỹ với 2 điểm mấu chốt là sự lơ là phòng bị vào buổi trưa và đồn địch trên bờ hỗ trợ tàu L’Espérance để tìm cách khắc chế bằng cách tấn công 2 mục tiêu tàu địch và đồn địch cùng lúc để ngăn chặn sự ứng cứu lẫn nhau, kết hợp với nghi binh, thu hút nhằm phân tán lực lượng chủ yếu trên tàu. Trong cách đánh, Nguyễn Trung Trực chọn nghĩa quân can đảm, giỏi võ, lặn lội giỏi, rành địa thế, nắm biết quy luật con nước lớn ròng, sử dụng vũ khí và chiến đấu trên sông nước thành thạo, bảo đảm tự chiến đấu khi được tung vào trận... để bảo đảm thắng lợi. Những trận phục kích quân Pháp ở mặt trận Bảo Định, sông Tra, sông Bến Lức có thể được xem là rất tiêu biểu của chiến thuật du kích, quấy rối. Trận lấy đồn Kiên Giang là kết quả của việc quy tụ lực lượng (gồm tất cả các tầng lớp, thành phần xã hội, dân tộc, bộ máy chính quyền địch,...), điều nghiên tình hình, kết hợp binh - địch, vận chọn thời điểm tấn công (gần sáng), yếu tố bất ngờ... được kết hợp một cách hoàn hảo để tạo nên sức mạnh tổng hợp làm nên chiến thắng vang dội.
Tất cả các yếu tố đó cộng với tài năng chỉ huy thông minh và táo bạo của Nguyễn Trung Trực đã làm cho trận đốt tàu L’Espérance trở thành một trong những trận thủy chiến kết hợp với hỏa công tiêu biểu mà không phải ai cũng làm được trong lịch sử. Trận đốt tàu L’Espérance trên Vàm Nhựt Tảo dù là trận đánh có quy mô nhỏ nhưng xét trên nhiều phương diện tương quan lực lượng, hoàn cảnh lịch sử, sự khác biệt và ưu thế về phương tiện chiến tranh, vũ khí..., đó là biểu hiện của tư duy quân sự, thông minh, sáng tạo và tinh thần quả cảm chiến đấu chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam có thể vượt lên tất cả, vì vậy mang tầm vóc vĩ đại, cùng với Bạch Đằng, Rạch Gầm Xoài Mút,... đi vào lịch sử chống ngoại xâm. Việc người Pháp xây “Đài chiến sĩ” trong khuôn viên Dinh tỉnh trưởng (nay là Nhà Thiếu nhi tỉnh Kiên Giang) có nội dung “Tưởng niệm tử sĩ trận đại chiến 1914-1918 và trận đột kích 1868” cho thấy trận tập kích đồn Kiên Giang của Nguyễn Trung Trực là trận đánh lớn, không thua kém gì một trận đánh trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Đó là một đánh giá khách quan về tầm vóc của Nguyễn Trung Trực.
Từ “Hỏa hồng Nhựt Tảo” đến “Kiếm bạt Kiên Giang”, Nguyễn Trung Trực bằng tài năng quân sự thiên bẩm đã thể hiện và minh chứng sinh động tinh hoa và tư tưởng quân sự Việt Nam “lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh”. Điều đó chỉ có ở một dân tộc có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm. Tinh thần đó sẽ bùng lên mạnh mẽ một khi vận nước lâm nguy để “giữ gìn ngọn rau tấc đất” dù “chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung” mà Nguyễn Trung Trực là một hình ảnh tiêu biểu và sống động về người anh hùng nông dân áo vải./.
(*) Lời trong bài Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.

Trở thành huyền thoại


Trước lúc hy sinh, Nguyễn Trung Trực đã thể hiện khí tiết của mình bằng câu nói bất hủ: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Ảnh: Internet
Trước lúc hy sinh, Nguyễn Trung Trực đã thể hiện khí tiết của mình bằng câu nói bất hủ: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Ảnh: Internet
Xuất phát từ tình cảm đối với một con người lịch sử, đã tạo nên lịch sử, khẳng định được tinh thần yêu nước, thể hiện khí phách anh hùng, tài năng quân sự hơn người cùng cái chết bất tử của một người anh hùng, nhân dân Nam bộ dành cho Nguyễn Trung Trực sự kính ngưỡng sâu sắc như một vị thần có công vì dân, vì nước - một vị thần do chính nhân dân phong tặng, tôn vinh và thờ phụng.
Cái chết bất tử của người anh hùng
Thất bại trước sự kiên gan của Nguyễn Trung Trực, Pháp đưa ông về Rạch Giá xử chém vào ngày 27-10-1868 (nhằm ngày 12-9 năm Mậu Thìn). Tương truyền, ngày ông bị xử chém, dân chúng thương tiếc người anh hùng đã làm lễ tế tiễn ông dọc 2 bên đường. Trước khi hành quyết, Pháp hỏi ông có cần gì không, ông chỉ xin uống một trái dừa tươi và ngâm bài thơ tuyệt mệnh:
Theo việc binh nhung thuở trẻ trai/ Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.
Anh hùng gặp phải hồi không đất/ Thù hận chang chang chẳng đội trời.
(Thi sĩ Đông Hồ dịch)
Một hình ảnh thật bi tráng, đầy sức nặng của một thời “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo”, thật sự là “anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang”.
Hay tin Nguyễn Trung Trực hy sinh, Đức Cố Quản Trần Văn Thành - người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Bảy Thưa (An Giang), tổ chức cho nghĩa quân tưởng niệm 3 ngày và lập hương án thờ phụng ở quân doanh.
Nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt trong bài Điếu Nguyễn Trung Trực đã ca ngợi hai chiến công bất hủ và khí phách của người anh hùng:
Thua được ở chiến trường không cần bàn đến/ Chỉ nhớ người dân chài đã làm cột đá trong lúc sóng lở;
Lửa đỏ Vàm Nhựt Tảo vang động trời đất/ Gươm vung lên ở Kiên Giang làm quỷ thần phải khóc;
Một buổi sáng phi thường nêu cao gương tiết nghĩa/ Không sợ báo đền Vua và cha mẹ không vẹn toàn;
Anh hùng cứng cổ tiếng thơm dài lâu/ Làm cho bọn chưa chết chịu sống cúi đầu thẹn chết được.
(Triệu Dương dịch)
Cụ Nghè Trương Gia Mô hết lời khen ngợi, tạm dịch:
Sợ thay người chài/ Hùng thay quốc sĩ/ Nhựt Tảo đốt thuyền/ Kiên Giang san lũy/Căm thù giết giặc/ Thề chết cũng cam/ Khói hương nghi ngút/Trung nghĩa rõ ràng.
Truyền thuyết rằng, lúc ra pháp trường đã xảy ra điều chưa từng có là tên đao phủ quỳ lạy xin lỗi ông, vì nghèo khó nên phải đi làm nghề chém mướn. Câu chuyện dù xuất phát từ lòng ngưỡng vọng, tôn kính ông như thần thánh của nhân dân nhưng toát lên thần thái, khí phách hiên ngang của Nguyễn Trung Trực nơi pháp trường. Trước khi đao phủ hành quyết, ông còn yêu cầu đừng bịt mắt...
Sanh vi tướng, tử vi thần
Những chiến công oanh liệt, hành động anh hùng của Nguyễn Trung Trực nơi pháp trường đã tạo nên ấn tượng sâu sắc với lòng cảm phục khôn cùng, sự kính ngưỡng sâu sắc trong lòng người dân Nam bộ, vốn quan niệm “sanh vi tướng, tử vi thần” ăn sâu trong tiềm thức, thần hóa và phụng thờ người có công vì dân, vì nước. Nhân dân tôn kính, tôn thờ ông như một vị thần để gửi gắm hy vọng trong cuộc sống tinh thần, hàng trăm năm nay kiêng gọi tên húy mà gọi bằng “Ông Nguyễn”, “Cụ Nguyễn”. Vì vậy mà cuộc đời và sự nghiệp của ông được nhân dân thêu dệt, sáng tạo ra truyền thuyết pha lẫn giữa đời thật và sự huyền hoặc nhuốm màu thần thánh, làm cho ông trở thành huyền thoại, có sức sống mãnh liệt trong lòng người dân.
Xuất phát từ lòng biết ơn và công lao, việc phong thần cho vị anh hùng dân tộc (AHDT) là chuyện thường có ở thời phong kiến, nhưng những nghiên cứu gần đây còn cho thấy một Nguyễn Trung Trực biểu tượng của “trung hiếu vẹn toàn” rất phù hợp với tôn chỉ Tứ Ân Hiếu Nghĩa nên trở thành vị thần được phụng thờ trang trọng của Bửu Sơn Kỳ Hương. Phật giáo Hòa Hảo tôn phong ông là “Quan Thượng đẳng đại thần”.
Ngoài đình thần Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá là đình thần chính để hàng năm, cứ đến ngày lễ hội, người dân hành hương về đây dự lễ, chiêm bái với tâm niệm đóng góp tiền của, công sức vun bồi nơi thờ tự ông như là một bổn phận, trở thành lễ hội có tính chất tự nguyện cộng đồng cao nhất cả nước, đến nay chưa thể thống kê cơ sở thờ tự có phối thờ Nguyễn Trung Trực với thần Thành Hoàng Bổn Cảnh hoặc vị thần khác cũng như trong nhân dân. Riêng việc thờ tự Nguyễn Trung Trực là chính thần, bước đầu cho thấy có ở 6 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Long An với 24 nơi, trong đó Kiên Giang là 13 nơi và Long An là 2 nơi: Di tích Vàm Nhựt Tảo (Tân Trụ) và di tích Xóm Nghề (Bến Lức). Tuy nhiên, người viết được biết qua nghiên cứu điền dã, hiện còn một nơi phối thờ Nguyễn Trung Trực với thần Thành Hoàng Bổn Cảnh là tại đình thần ấp 1, xã Long Định, huyện Cần Đước, cúng cùng ngày Lễ Kỳ yên (15, 16 tháng Giêng). Đây là quê hương của Phó Quản cơ Huỳnh Khắc Nhượng - người cùng với Nguyễn Trung Trực chỉ huy đánh chìm tàu L’Espérance trên Vàm Nhựt Tảo (10/12/1861). Tình cảm của người dân dành cho AHDT Nguyễn Trung Trực thật vô cùng sâu đậm.
Sống mãi trong lòng nhân gian
Sự kính ngưỡng sâu sắc của người dân dành cho AHDT Nguyễn Trung Trực ngoài việc thờ cúng ở rất nhiều nơi là những truyền thuyết dân gian giàu chất huyền thoại gắn liền với những chiến công và tấm gương yêu nước, hy sinh oanh liệt của người anh hùng dân chài.
Dòng họ Nguyễn ở Xóm Nghề còn tương truyền câu chuyện về lời nguyền của Nguyễn Trung Trực lúc ra đi theo đuổi sự nghiệp chống giặc. Số là dòng họ làm nghề chài lưới ở Quy Nhơn nên có lệ cúng cầu ngư vào ngày mùng 10-3 âm lịch hàng năm. Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ (25/02/1861), Nguyễn Trung Trực đưa nghĩa quân trở về Tân An tiếp tục chống giặc, đã tổ chức khao binh, xuất quân tại nhà vào dịp cúng cầu ngư năm Tân Dậu. Hôm ấy, trước mọi người, ông khẳng khái bảo với gia đình rằng khi nào thắng Pháp mới về, gia đình có nhớ đến ông thì đến ngày mùng 10/3 hãy rót rượu cúng. Lệ này được dòng họ duy trì cho đến ngày nay.
Dù hiện nay vẫn nghiêng về việc nghĩa quân tiếp cận tàu L’Espérance là bằng cách ngụy trang làm ghe buôn xin giấy thông hành nhưng trong dân gian vẫn luôn tin rằng là một đám cưới giả mà Quản Lịch trong vai chú rể. Cùng lúc ấy, trên bờ, một trận đánh khác cũng được tổ chức tại chùa Ông (xã An Nhựt Tân), mời lính Tây đến dự đám hát bội và tiệc tùng để tiêu diệt khi có hiệu lệnh của người cầm chầu (Hương thân Hồ Quang Chiêu - con ông Hồ Văn Chương) theo quy ước phối hợp với cánh dưới sông. Phải chăng vì lòng yêu mến mà người đời luôn có xu hướng thi vị hóa chiến công của AHDT Nguyễn Trung Trực dù giữa chốn binh đao.
Giặc Pháp trả thù bằng cách đốt nhà, đốt chợ. Dân làng vùng lân cận như làng Đái Nhựt (nay thuộc xã Nhựt Ninh) cũng bị đốt, phải chạy vào phía trong, lập nên chợ Xóm Mới ngày nay. Người dân chài ở Xóm Nghề và làng Nhựt Tảo dọc theo sông Vàm Cỏ Đông đã sát cánh cùng Nguyễn Trung Trực trong nhiều trận chiến, cả trận chiến cuối cùng ở Kiên Giang mà tên làng Nhựt Tảo ở Rạch Giá là bằng chứng. Dù cần được kiểm chứng đầy đủ hơn nhưng tác giả trong lần gặp gỡ trao đổi với Bí thư Huyện ủy Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang là ông Lê Hữu Phước (ngày 06/10/2018) được biết rằng, tại ấp 4 (người dân ở đây gọi là ấp Tư), còn xóm Nhựt Tảo và con kênh Nhựt Tảo (nay thuộc xã Thuận Hòa, xưa là Thuận Hưng, huyện Long Mỹ) là dấu vết của người dân Nhựt Tảo (Long An) bỏ chạy về đây.
Về Kiên Giang, chúng ta sẽ được nghe câu chuyện về đồng bào Tà Niên (xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành) đẫm lệ dệt chiếu bông nâng bước chân người anh hùng. Hay tin Nguyễn Trung Trực sẽ bị hành quyết, đồng bào Tà Niên - nơi có nhiều người tham gia nghĩa quân Nguyễn Trung Trực và nổi tiếng với nghề dệt chiếu, ngày đêm dệt những chiếc chiếu hoa để trải trên đường đi đưa cụ Nguyễn vào cõi thiên thu và cũng để đầu cụ không rơi xuống đất. Xưa, trên đường vua đi mới trải chiếu. Ở đây, lòng kính trọng của người dân đã vượt khỏi thường tình của tục lệ. Tương truyền, khi lưỡi đao của kẻ thù bổ xuống, máu từ cổ người anh hùng phun xuống mặt chiếu Tà Niên, đọng thành hình chữ Thọ. Thương nhớ cụ Nguyễn, người Tà Niên đã mang chiếc chiếu thấm máu người anh hùng về lưu thờ và cũng từ đây, nghề dệt chiếu hoa với chữ Thọ không thể thiếu ở làng chiếu Tà Niên được hình thành (dù nghề dệt chiếu ở đây có từ trước năm 1880). Đằng sau yếu tố huyền hoặc, thậm chí hoang đường của truyền thuyết, câu chuyện dân gian chiếu Tà Niên thấm máu người anh hùng vị quốc vong thân đầy chất bi tráng trong giờ khắc ra pháp trường hiển hiện sự yêu thương, lòng ngưỡng mộ, tôn kính sâu sắc của đồng bào với anh hùng Nguyễn Trung Trực: Chữ Thọ ở đây có ý nghĩa dù mất đi nhưng cụ sống mãi trong lòng nhân dân. Và phải chăng, có sự liên hệ nào hay không khi mà hai câu kết trong bài Điếu Nguyễn Trung Trực của thà thơ Huỳnh Mẫn Đạt lại đầy xúc cảm về điều đó:
Anh hùng cương cảnh phương danh thọ
Tu sát đê đầu vị tử nhân.
Hiện nay, tại đình Vĩnh Hòa Hiệp, Châu Thành, Kiên Giang, có treo tấm chiếu mà người ta luôn cho là do dân làng Tà Niên dệt tiễn cụ Nguyễn tại pháp trường.
Đơn cử vài câu chuyện trong biết bao nhiêu truyền thuyết về ông để thấy rằng AHDT Nguyễn Trung Trực bất tử trong nhân gian. Cuộc đời, sự nghiệp với những chiến công oanh liệt và cái chết đầy dũng khí của AHDT Nguyễn Trung Trực trở nên chói lòa trong lịch sử, là biểu hiện cụ thể và sinh động nhất hình tượng người nông dân Việt Nam anh hùng mà nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu khắc họa hết sức đẹp đẽ và bi tráng trong áng văn bất hủ Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc... Đó là đại biểu ưu tú cho giai cấp nhận lấy sứ mạng lịch sử giải phóng dân tộc về sau này./.
ThS. Nguyễn Tấn Quốc





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét