Để chuẩn bị cho lễ cúng lúa mới, trong mâm cỗ người Tày không thể thiếu một bát nước đã được đun chung với ba bông lúa non được lấy về từ ruộng mảnh ruộng mầu mỡ nhất của gia đình.
Bởi bà con quan niệm rằng, uống nước này tương lai sẽ không bao giờ đói khát và tránh được mọi tai họa ập đến. Sau khi trình lên bàn thờ tổ tiên, khai bữa cơm gia đình, mọi thành viên sẽ uống ngụm nước đó để tượng trưng cho bữa cơm bằng lúa mới thu hoạch.
Khi
những bông lúa vụ mùa chuyển màu óng ả, khoe sắc trên nương, bà con dân
bản Tày lại cùng nhau tổ chức bày tiệc làm lễ mừng được mùa lúa.
Theo
phong tục của người Tày, vào khoảng thời điểm tháng Tám âm lịch, trời
đất bắt đầu chuyển giao giữa tiết bạch lộ và thu phân. Đó cũng là lúc
những bông lúa vụ mùa chuyển màu óng ả, khoe sắc trên nương, bà con dân
bản lại cùng nhau tổ chức bày tiệc làm lễ mừng được mùa lúa mới để cúng
giàng, cúng tổ tiên. Lễ cúng chính là lòng thành kính của con người đối
với đất trời, gửi gắm ước nguyện no ấm vào tương lai...Về nguồn gốc của lễ mừng lúa mới, theo người dân nơi đây kể lại: Thủa xưa có hai anh em trai nhà nghèo khó, cha mẹ lại già yếu. Người dân bản để có cái ăn, quanh năm họ chui rúc trong rừng sâu, bới đào rễ củ trong rừng về ăn. Cuộc sống của họ vẫn cứ tiếp diễn như vậy cho đến khi cha mẹ hai chàng trai mất vì đói. Hai anh em nhà nọ cũng đã trưởng thành. Thấy dân làng quanh năm nghèo khổ, chẳng bao giờ đủ ăn. Họ quyết định đi xa tìm thứ khiến cuộc sống no đủ hơn chú không thể chết dần trong cảnh đói nghèo.
Sau hơn một năm thì họ trở về với bản làng. Họ hồ hởi cho biết đã được “người trời” cho một thứ ngũ cốc ngon hơn ngô mà “người trời” hay ăn. Đó là những hạt lúa. Những hạt lúa nảy mầm rồi ra bông, kết hạt. Người Tày từ ngày đó nhờ hạt lúa làm ấm bụng cũng chẳng còn lo đói nữa. Để ghi nhớ điều kỳ diệu này, mỗi năm bản làng người Tày đều chọn ngày Thìn trước mùa lúa gặt về bồ để tổ chức mừng lúa.
Lễ vật quan trọng không thể thiếu cho lễ cúng trong mâm cỗ người Tày là một bát nước đã được đun chung với ba bông lúa non được lấy về từ mảnh ruộng mầu mỡ nhất của gia đình. Tiếp đến, những món ăn đi kèm là canh mướp ngọt, ốc đồng, khoai sọ, cũng với quan niệm cho rằng, về đời sau con cái được no ấm, hiếu thảo, thậm chí là đuổi được tà ma.
Lễ vật dùng để chuẩn bị cho lễ cúng không thể thiếu một bát nước đã được đun chung với ba bông lúa non. (Ảnh: Internet)
Mâm cỗ cúng mừng lúa mới của người Tày ở Cao Bằng. (Ảnh: Internet)
Ngày
này vui nhất có lẽ là đám trẻ con, bởi ai ai cũng được mặc quần áo mới,
được làm những chiếc khèn bằng những cọng rơm, loa “khuếch đại” âm
thanh bằng những bẹ măng, chúng thi nhau làm khèn để kêu to và vang xa
nhất. Ngày tết này trong bản rất vui, nhà nào cũng rộn rã, không khi nào
ngưng tiếng kèn.Những chiếc khèn chỉ có giá trị duy nhất trong ngày này vì người địa phương quan niệm rằng thổi kèn sớm quá lũ chuột nghe thấy sẽ phá hoại mùa màng. Lúc này đây là thời điểm thích hợp để tấu lên những bản nhạc báo hiệu mùa màng đã tốt tươi, chuẩn bị tinh thần để thu hoạch, bước vào mùa vụ sản xuất mới.
Tết lúa mới được kéo dài đến tận buổi chiều muộn. Người già, trẻ chăn trâu ai cũng nô nức tìm lên rừng làm ồ lô rồi đuổi trâu về chuồng sớm để tranh thủ kịp bữa cơm mừng Lúa mới.
Theo Dân Việt
Những người “sành điệu” về du lịch vùng cao thường cho rằng lên Tây Bắc phù hợp nhất là vào mùa Thu, khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm. Vào thời điểm này, ngoài tiết trời trong xanh, khô ráo thuận lợi cho leo núi và du lịch bản làng còn có một lý do quan trọng khác, đó là mùa các chân ruộng bậc thang vào độ chín, mùa bản làng Tây Bắc rộn ràng hương lúa mới với nét văn hóa bản địa độc đáo là hội cốm, tức "ăn mừng cơm mới" (còn gọi là "kin khẩu mẩu") của đồng bào các dân tộc, trong đó có người Tày Lào Cai.
Mùa Thu, lễ "kin khẩu mẩu" bắt đầu khi trên cánh đồng các bản người Tày ở Bảo Yên, Bắc Hà, Văn Bàn, Sa Pa, người người tấp nập gặt lúa. Ven các con suối Nhù, Nậm Mu, Mường Hoa và Nghĩa Đô, các tốp nam nữ thanh niên đứng giã gạo bên chiếc cối dài làm từ thân cây to đã khoét lõi, tiếng cười nói giòn giã . Sau mỗi lần chiếc chày giã xuống, các chàng trai, cô gái đập thêm một nhịp vào thành cối tạo thành âm thanh thậm thịch vui tươi. Người rang, người giã, người sàng sảy… tạo nên không khí đông vui rộn ràng mang đậm nét văn hóa riêng có ở vùng cao Lào Cai.
Lễ “Kin khẩu mẩu" của người Tày diễn ra khi sắp kết thúc hai vụ gieo trồng chính trong năm. Theo phong tục truyền thống của người Tày, gia đình nào có “ma nhà,” có cối hương thờ cúng cha mẹ, ông bà, hàng năm đều phải tổ chức lễ cúng “cơm mới”. Trước đó, thầy mo có uy tín trong vùng sẽ chọn một ngày lành, sau đó báo cho mọi người biết để tổ chức lễ. Tất cả các gia đình trong vùng đều tổ chức lễ vào ngày này.
Theo đó, người dân sẽ chọn vài bông lúa đẹp nhất trong đám ruộng, cắt cả bông đem về nhà. Sau đó, đun sôi một ít nước và thả bông lúa mới vào rồi mang bát nước cùng bông lúa lên bàn thờ thắp hương dâng cúng tổ tiên, cầu mong được mùa màng bội thu để năm sau lại có của cải dâng tổ tiên…
Đặc biệt, mâm lễ cúng không thể thiếu được món ăn truyền thống của người Tày là cốm. Nếu như ở nhiều địa phương, nghề làm cốm đang dần bị mai một, ở Lào Cai nhờ lễ ăn mừng cơm mới, hội cốm đã trở thành là nét đẹp văn hóa ẩm thực được duy trì và tiếp nối của các dân tộc vùng cao.
Đối với người Tày, dù lúa nếp được cấy dưới ruộng nước hay gieo trên nương rẫy, khi ngắt lúa về, hạt lúa nếp phải còn chút sữa ở đầu hạt, vỏ hơi lam vàng và hạt chưa chín hết, khi làm hạt cốm vừa dẻo vừa thơm. Lúa nếp ngắt về được chế biến ngay, bởi nếu để mấy hôm sau mới làm sẽ mất đi nhiều hương thơm và độ dẻo. Sau khi sàng sảy lấy những hạt chắc, lúa được đưa vào rang và cho vào cối đá giã đều cho bong vỏ trấu bên ngoài, rồi sàng sảy hết cám và vỏ trấu. Lúc này, những hạt cốm xanh tươi bắt đầu “lộ diện” với mùi thơm hấp dẫn. Để cho cốm dẻo và xanh hơn, tiếp tục phải cho cốm vào cối để giã một lần nữa. Sau lần giã này, cốm được sàng bỏ cám rất kỹ trước khi đưa vào sử dụng. Nếu gia đình nào lỡ để lúa nếp hơi quá ngày, già tháng một chút phải cho lúa vào nồi luộc chín mới mang đi giã. Theo họ, cách làm này sẽ tạo cho hạt cốm vị thơm và dẻo như cốm rang vậy.
Hạt cốm Tày sau bao lần giã, sàng sảy tròn mẩy, xanh ngắt như lá dong rừng, mười hạt đều cả mười, cầm vào mát nhẹ giữa lòng bàn tay... Trong lễ ăn mừng cơm mới của người Tày, từ cốm, người ta có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau như xôi, chè, cháo, bánh...Hạt cốm làm khá kì công nên giá thành không rẻ, dao động từ 120.000 – 150.000 đồng/kg.
Mỗi mùa cốm về, cả gia đình chị Liềng Thị Mỷ (Na Hối, Bắc Hà) tập trung toàn bộ nhân lực để kịp làm cốm đem bán ở chợ phiên hoặc đổ buôn. Cốm ở đây được làm từ lúa nếp truyền thống của người Tày Bắc Hà nên mang hương vị đặc trưng hấp dẫn. Chị Mỷ cho biết, muốn bảo quản cốm được lâu mà vẫn đảm bảo độ thơm, dẻo phải dùng lá dong tươi lót hoặc túm từng túm khoảng 1 kg/túm. Theo chị Mỷ, mỗi ngày gia đình chị làm được từ 30 - 40 kg. Như vậy, thu nhập từ làm cốm của mỗi người trong gia đình được khoảng 1 - 2 triệu đồng/ngày.
Theo ông Nguyễn Văn Luyện, Trưởng Phòng Văn hóa - Thể thao và Du lịch huyện Bắc Hà (Lào Cai), đây là món ăn đặc sản truyền thống được du khách đến Bắc Hà, Lào Cai đặc biệt ưa thích. Tại các chợ phiên hoặc chợ lớn ở thành phố, cốm luôn “cháy” hàng.
"Lễ hội mừng cơm mới" là sự kế thừa những thành quả, những giá trị đời sống văn hóa, tinh thần mà nhân dân các dân tộc trên địa bàn Lào Cai đã nỗ lực gìn giữ, bảo tồn và phát huy trong cuộc sống hiện đại. Đây không chỉ là nét đẹp văn hóa cần được trân trọng, duy trì mà còn góp phần giúp người dân cải thiện cuộc sống từ chính đặc sản quê hương.
Lễ hội mừng cơm mới của người Tày
Những người “sành điệu” về du lịch vùng cao thường cho rằng lên Tây Bắc phù hợp nhất là vào mùa Thu, khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm. Vào thời điểm này, ngoài tiết trời trong xanh, khô ráo thuận lợi cho leo núi và du lịch bản làng còn có một lý do quan trọng khác, đó là mùa các chân ruộng bậc thang vào độ chín, mùa bản làng Tây Bắc rộn ràng hương lúa mới với nét văn hóa bản địa độc đáo là hội cốm, tức "ăn mừng cơm mới" (còn gọi là "kin khẩu mẩu") của đồng bào các dân tộc, trong đó có người Tày Lào Cai.
Lễ cúng cơm mới của người dân tộc Tày Bắc Hà. Ảnh: lehoi.cinet.vn |
Mùa Thu, lễ "kin khẩu mẩu" bắt đầu khi trên cánh đồng các bản người Tày ở Bảo Yên, Bắc Hà, Văn Bàn, Sa Pa, người người tấp nập gặt lúa. Ven các con suối Nhù, Nậm Mu, Mường Hoa và Nghĩa Đô, các tốp nam nữ thanh niên đứng giã gạo bên chiếc cối dài làm từ thân cây to đã khoét lõi, tiếng cười nói giòn giã . Sau mỗi lần chiếc chày giã xuống, các chàng trai, cô gái đập thêm một nhịp vào thành cối tạo thành âm thanh thậm thịch vui tươi. Người rang, người giã, người sàng sảy… tạo nên không khí đông vui rộn ràng mang đậm nét văn hóa riêng có ở vùng cao Lào Cai.
Lễ “Kin khẩu mẩu" của người Tày diễn ra khi sắp kết thúc hai vụ gieo trồng chính trong năm. Theo phong tục truyền thống của người Tày, gia đình nào có “ma nhà,” có cối hương thờ cúng cha mẹ, ông bà, hàng năm đều phải tổ chức lễ cúng “cơm mới”. Trước đó, thầy mo có uy tín trong vùng sẽ chọn một ngày lành, sau đó báo cho mọi người biết để tổ chức lễ. Tất cả các gia đình trong vùng đều tổ chức lễ vào ngày này.
Theo đó, người dân sẽ chọn vài bông lúa đẹp nhất trong đám ruộng, cắt cả bông đem về nhà. Sau đó, đun sôi một ít nước và thả bông lúa mới vào rồi mang bát nước cùng bông lúa lên bàn thờ thắp hương dâng cúng tổ tiên, cầu mong được mùa màng bội thu để năm sau lại có của cải dâng tổ tiên…
Đặc biệt, mâm lễ cúng không thể thiếu được món ăn truyền thống của người Tày là cốm. Nếu như ở nhiều địa phương, nghề làm cốm đang dần bị mai một, ở Lào Cai nhờ lễ ăn mừng cơm mới, hội cốm đã trở thành là nét đẹp văn hóa ẩm thực được duy trì và tiếp nối của các dân tộc vùng cao.
Đối với người Tày, dù lúa nếp được cấy dưới ruộng nước hay gieo trên nương rẫy, khi ngắt lúa về, hạt lúa nếp phải còn chút sữa ở đầu hạt, vỏ hơi lam vàng và hạt chưa chín hết, khi làm hạt cốm vừa dẻo vừa thơm. Lúa nếp ngắt về được chế biến ngay, bởi nếu để mấy hôm sau mới làm sẽ mất đi nhiều hương thơm và độ dẻo. Sau khi sàng sảy lấy những hạt chắc, lúa được đưa vào rang và cho vào cối đá giã đều cho bong vỏ trấu bên ngoài, rồi sàng sảy hết cám và vỏ trấu. Lúc này, những hạt cốm xanh tươi bắt đầu “lộ diện” với mùi thơm hấp dẫn. Để cho cốm dẻo và xanh hơn, tiếp tục phải cho cốm vào cối để giã một lần nữa. Sau lần giã này, cốm được sàng bỏ cám rất kỹ trước khi đưa vào sử dụng. Nếu gia đình nào lỡ để lúa nếp hơi quá ngày, già tháng một chút phải cho lúa vào nồi luộc chín mới mang đi giã. Theo họ, cách làm này sẽ tạo cho hạt cốm vị thơm và dẻo như cốm rang vậy.
Hạt cốm Tày sau bao lần giã, sàng sảy tròn mẩy, xanh ngắt như lá dong rừng, mười hạt đều cả mười, cầm vào mát nhẹ giữa lòng bàn tay... Trong lễ ăn mừng cơm mới của người Tày, từ cốm, người ta có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau như xôi, chè, cháo, bánh...Hạt cốm làm khá kì công nên giá thành không rẻ, dao động từ 120.000 – 150.000 đồng/kg.
Mỗi mùa cốm về, cả gia đình chị Liềng Thị Mỷ (Na Hối, Bắc Hà) tập trung toàn bộ nhân lực để kịp làm cốm đem bán ở chợ phiên hoặc đổ buôn. Cốm ở đây được làm từ lúa nếp truyền thống của người Tày Bắc Hà nên mang hương vị đặc trưng hấp dẫn. Chị Mỷ cho biết, muốn bảo quản cốm được lâu mà vẫn đảm bảo độ thơm, dẻo phải dùng lá dong tươi lót hoặc túm từng túm khoảng 1 kg/túm. Theo chị Mỷ, mỗi ngày gia đình chị làm được từ 30 - 40 kg. Như vậy, thu nhập từ làm cốm của mỗi người trong gia đình được khoảng 1 - 2 triệu đồng/ngày.
Theo ông Nguyễn Văn Luyện, Trưởng Phòng Văn hóa - Thể thao và Du lịch huyện Bắc Hà (Lào Cai), đây là món ăn đặc sản truyền thống được du khách đến Bắc Hà, Lào Cai đặc biệt ưa thích. Tại các chợ phiên hoặc chợ lớn ở thành phố, cốm luôn “cháy” hàng.
"Lễ hội mừng cơm mới" là sự kế thừa những thành quả, những giá trị đời sống văn hóa, tinh thần mà nhân dân các dân tộc trên địa bàn Lào Cai đã nỗ lực gìn giữ, bảo tồn và phát huy trong cuộc sống hiện đại. Đây không chỉ là nét đẹp văn hóa cần được trân trọng, duy trì mà còn góp phần giúp người dân cải thiện cuộc sống từ chính đặc sản quê hương.
Hương Th
u
u
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét