Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến
ANTD.VN - Cuối thế kỷ XIX, thời Vua Tự Đức, phương tiện đi lại của các quan huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận (tỉnh Hà Nội) là võng và kiệu. Với thị dân, họ dùng: cáng (2 người khiêng); xe đẩy (có 1 bánh, 1 người kéo, 1 người đẩy) và đặc biệt là xe ngựa. Bánh xe ngựa bằng gỗ chở được 4 người. Những xe này chở khách từ ngoài các cửa ô vào trong thành và chở khách từ trong thành ra.
Xe ngựa một thời là phương tiện chính chở lương thực và vũ khí của quân đội thực dân Pháp (Ảnh: Internet)
Khi người Pháp chiếm Hà Nội, xe ngựa trở thành phương tiện chính chở lương thực và vũ khí của quân đội Pháp. Các sĩ quan dùng ngựa để cưỡi khi di chuyển trong thành phố. Nhưng muốn cưỡi ngựa phải có yên nên họ đã tuyển lính thợ là người Việt, dạy cho họ cách đóng yên. Sau khi mãn hạn lính, một số người thạo nghề đã mở cửa hàng đóng yên ở phố Hàng Trống rồi chuyển về phố Hà Trung.
Để vận chuyển hàng hóa, lương thực và vũ khí từ cảng sông Hồng vào trong thành, quân đội Pháp cho làm đường ray từ khu vực Đồn Thủy (tương ứng với khu vực phố Phạm Ngũ Lão kéo xuống Bệnh viện 108 hiện nay) chạy dọc phố Tràng Tiền và Tràng Thi qua Cửa Nam vào thành.
Họ chất hàng hóa lên các toa có bánh sắt rồi dùng ngựa kéo khiến việc vận chuyển khá nhanh và thuận tiện. Để tiện việc đi lại của công dân Pháp, nhân viên các công sở trên địa bàn thành phố, Công sứ Hà Nội đã cho mở tuyến xe chở khách công cộng năm 1883. Tuyến xe ngựa công cộng này bắt đầu từ khu Đồn Thủy chạy qua phố Tràng Tiền đến phố Nhà Chung.
Đầu thế kỷ XX, ngựa vẫn được dùng kéo xe chở khách nhưng nó lại thêm việc mới là kéo xe tang và xe cưới ở Hà Nội. Khi nhà trai đi đón dâu, họ dùng xe ngựa. Cô dâu chú rể ngồi trên xe song mã, theo sau là đoàn xe kéo tay. Xe song mã có hai ghế bọc da trắng, xung quanh xe được cài hoa và các dây băng nhiều màu.
Khi xe song mã chạy phát ra tiếng chuông đồng nghe rất vui tai. Khi Hà Nội xuất hiện dịch vụ đón dâu bằng ô tô năm 1934, nhiều gia đình cưới con đã chọn phương tiện văn minh này. Và rồi xe song mã dần ra khỏi đời sống thị dân. Bên cạnh đó xe đạp, ô tô ở Hà Nội nhiều hơn nên xe ngựa chở khách gần như mất hẳn ở nội đô trong những năm đầu 1930 và chỉ còn thấy ở ngoại ô và các tỉnh.
Ngựa không chỉ kéo xe chở hàng, chở khách mà ngựa còn được dùng để làm xiếc ngựa. Đầu thế kỷ XX, gánh xiếc nhà họ Tạ đã mở trại nuôi ngựa ở làng Ngọc Hà và huấn luyện chúng để diễn viên thực hiện tiết mục cưỡi ngựa trong các tư thế khi con ngựa đang phi nước đại trong một vòng tròn. Con ngựa đang phi nước đại bỗng chồm hai chân lên không trung khiến trẻ con vô cùng thích thú.
Tuy nhiên ít người biết xưa Hà Nội từng có đua ngựa giải trí và cá cược. Để đáp ứng nhu cầu giải trí và cá cược cho những người Pháp sống ở Bắc Kỳ, năm 1889, Hội Đua ngựa Hà Nội đề nghị Thống sứ Bắc Kỳ cấp khu đất nằm dọc theo đường Boulevard Gambetta (nay là cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội), giáp các làng Nam Ngư, Liên Đường và đường Cái quan (nay là đường Lê Duẩn) làm trường đua với diện tích 94.510m2.
Năm 1890, việc xây dựng khán đài hoàn thành và được nghiệm thu ngày 7-10-1890. Khán đài được chia làm 3 phần: Bên phải và bên trái dành cho công chúng; chia thành 9 hàng, với sức chứa khoảng 70 người; Khu vực trung tâm được sử dụng làm khán đài danh dự, lát gạch vuông, có chỗ cho khoảng 20 người. Khi Chính phủ Pháp quyết định xây dựng ga Hàng Cỏ ở khu vực này thì trường đua phải dời đi.
Năm 1899, trường đua dời về khu vực gần vườn Bách Thảo (nay là Cung thể thao Quần Ngựa, phố Văn Cao). Để xây trường đua, họ đã lấy đất của làng Ngọc Hà, Liễu Giai, Vĩnh Phúc, Kim Mã và Vạn Phúc. Chiều dài trường đua này là 500m và rộng 200m. Ngoài ra, còn có một khu đất 10.000m2 ở phía Tây làm khán đài và bãi quây ngựa. Trường đua còn có các công trình phụ trợ gồm: tàu ngựa, nhà vệ sinh, ki-ốt âm nhạc và quầy rượu.
Năm 1900, trường đua tiếp tục mở rộng về phía các làng Ngọc Hà, Vĩnh Phúc và Kim Mã. Khi xảy ra Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), trường đua thưa thớt và sập xệ rơi vào tình trạng “tồi tàn, các công trình xây dựng trở thành hoang phế” khiến Chính phủ Bảo hộ phải cho cải tạo lại. Nhân kỷ niệm 127 năm Quốc khánh Pháp, ngày 16-7-1916, một cuộc đua được tổ chức thu hút rất đông người tới xem.
Tuần báo Kinh tế Đông Dương đã tường thuật về sự kiện này: “Ngay từ 3 giờ, đám đông đã bắt đầu kéo đến trường đua trên xe kéo tay, xe đạp, xe ngựa, xe hơi, và tỏ ra kinh ngạc khi thấy những công trình mà họ tưởng chừng hoang phế vĩnh viễn đã được thay áo mới, chiếm chỗ của các bãi cỏ và khán đài cũ… Rất đông người bản xứ ngồi lẫn với người Âu tại khu vực dành cho khách có vé”. Những người không thể mua vé thì tụ tập ở phần đất đối diện, trên đê Parreau (nay là đường Hoàng Hoa Thám), thậm chí trên cành cây để có thể quan sát trận đấu.
Môn thể thao đua ngựa lan rộng dẫn đến xuất hiện nhiều lò nuôi ngựa đua nhập từ nước ngoài. Năm 1899, theo gợi ý của bác sĩ thú y Lepinte, Chính phủ Bảo hộ cho nuôi ngựa ngay trong Thành Hà Nội và các cơ sở chăn nuôi tại Bạch Mai. Tuy nhiên, kết quả thu được không mấy khả quan. Do đó, nhiều trại ngựa giống được thành lập, điển hình là trại Nước Hai (Cao Bằng).
Trước năm 1914, trại Nước Hai đã tiếp nhận 46 con ngựa giống Pháp và 34 con ngựa Australia rồi tiến hành lai tạo với giống ngựa bản địa. Năm 1914, trại Nước Hai bị xóa bỏ, sau đó mở cửa trở lại sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Kể từ giai đoạn này, trại nhập thêm nhiều ngựa giống từ Tunisia, Ấn Độ cung cấp cho quân đội Pháp và các chủ có ngựa tham gia đua ở Hà Nội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét