"Khe thần" vẫn còn là câu chuyện huyền bí
(Tin tuc) - Hơn một ngày đường đi bộ, đặt chân tới "Khe thần" trong lòng cảm thấy nhẹ nhỏm, phía trước mặt mình là "địa chỉ lạ". Không gian núi rừng như đánh thức tâm trí muốn khám phá những điều còn là bí ẩn.
Nằm giữa đại ngàn Trường Sơn, bao đời nay câu chuyện huyền thoại về "Khe thần" vẫn đang được đồng bào dân tộc Thái ở tỉnh Nghệ An đồn thổi. "Khe thần" nằm ở chốn "sơn cùng thủy tận", đã thôi thúc không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu, nhà khoa học,… đến tìm hiểu. Câu chuyện được đồn thổi là nếu uống hoặc tắm nước từ "Khe thần" sẽ "trường sinh", con gái sẽ có làn da trắng hồng, thú dữ uống nước khe đều trở nên hiền lành không xuống bản bắt trâu bò, bắt người.
Cheo leo vượt đường rừng
Từ TP Vinh, tỉnh Nghệ An, chúng tôi ngược hơn 100 km đường đèo, dốc thẳm để đến "Khe thần". Vào "Khe thần" thuộc xã Nghĩa Bình, huyện Tân Kì, tỉnh Nghệ An phải mất hơn cả ngày đường quốc bộ, băng qua những thung lũng sâu xuyên qua bao ngọn núi, cánh rừng già âm u, đối chọi với muỗi, vắt, chông gai của cây rừng. Già làng Lục Khánh đã tình nguyện dẫn đường, hồi tưởng tâm niệm: Sự tích về “Khe thần” có từ xa xưa, người Thái chúng tôi truyền miệng nhau về sự linh thiêng, kỳ bí này. Khe thần là "ân nhân, bùa hộ mệnh" cho người dân tộc Thái. Bởi thế, bao đời nay chúng tôi đều thờ cúng “Khe thần".
Già làng cầm rựa đi đầu, chúng tôi theo sau. Luồn lách dưới những tán lá rừng sum suê rậm rạp, mùi ẩm bốc lên từ những đống lá cây rụng xuống tầng tầng lớp lớp, có chỗ nấm rừng mọc lên từng khóm trắng bạch. Leo qua con dốc thẳm, già làng Lục Khánh ngoái đầu lại hỏi: "Các con có mệt lắm không? Đường đến đó còn gian nan, chông gai lắm, phải cố gắng chịu đựng". Dọc đường đi già làng kể cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện để giảm sự mệt mỏi.
Đứng trên đỉnh ngọn núi có tên là Bồ Bồ mù sương, áp suất không khí chênh lệch đã khiến cho nhịp đập tim khó thở. Già làng chỉ tay, "Khe thần" còn nằm cách 2 ngọn núi nữa. Xa xa là đồi núi trập trùng, mây mù bốn mùa bao phủ. Anh bạn tỏ vẻ khâm phục các cụ ngày xưa: "Không biết các cụ ngày ấy đi bằng cách nào mà tìm ra “Khe thần” được, đi bằng chân mà leo trèo giỏi thật". Càng đi lên cao chúng tôi ngờm ngợp, choáng váng. Mừng thầm: Nếu như không có già làng Lục Khánh dẫn đường thì không bao giờ mơ tới cuộc chinh chiến “Khe thần”. Tận mắt chứng kiến, trực tiếp tham gia thì mới thấy sự gian nan, vất vả ở nơi "sơn cùng thủy tận" này.
Khi đứng trên đỉnh núi, già làng Lục Khánh ra hiệu: "Các con hãy bám chắc bố, không ai được rời tay nhau, sắp xuống hang xuyên qua núi, hang này khiến nhiều đoàn thám hiểm đều đầu hàng ở đây". Giây phút thót tim, nín thở lê theo từng bước chân, cuối cùng chúng tôi cũng đã chạm đến "Khe thần". Quang cảnh thật hoang sơ, không bóng người. Trước mắt làn nước trong xanh, làn gió nhẹ vi vu thổi qua rờn rợn nổi cả da gà. Tìm chỗ bóng cây cổ thụ, chúng tôi tạm ăn đồ ăn khô lót dạ sau cả ngày đường trèo đèo lội suối. Những câu chuyện huyền bí về “Khe thần” đã được Già làng kể tỉ mỉ cho chúng tôi nghe.
Hơn một ngày đường đi bộ, đặt chân tới "Khe thần" trong lòng cảm thấy nhẹ nhõm, phía trước mặt mình là "địa chỉ lạ". Không gian núi rừng như đánh thức tâm trí muốn khám phá những điều còn là bí ẩn. Già làng Lục Khánh là người am hiểu nhất về tục lệ cũng như các luật lệ khi người lạ "nhập rừng". Soạn lễ, thắp hương cầu khấn, xin thần núi, thần khe… "Đây là luật lệ những người lạ khi vào “Khe thần”, ai mà không báo cáo với thần núi thì không may mắn, có thể tai họa đến với mình" - Già làng Lục Khánh chia sẻ.
Nằm lọt thỏm giữa đại ngàn, chúng tôi cùng với già làng trải lá rừng ngồi quây quần dưới gốc cây đại thụ, trên những cành cây tiếng chim hót líu lo. Những câu chuyện huyền thoại của già làng Lục Khánh đã cuốn hút chúng tôi chăm chú lắng nghe.
"Khe thần" được lưu truyền từ đời này qua đời khác, vẫn còn là câu chuyện huyền bí. Khi kể về quá khư, già làng Lục Khánh mắt ánh lên niềm tự hào, vui sướng về mảnh đất hào hùng cách mạng này. Mảnh đất nơi đây đã nuôi dưỡng những chiến sỹ cách mạng góp phần thắng lợi nước nhà. Già làng Lục Khánh giọng ồm ồm kể lại sự tích có tên "Khe thần": "Khe thần đã có cách đây hàng nghìn năm, cội nguồn về nó cũng chỉ người đời truyền miệng nhau, còn sự thật về nó cũng chưa rõ lắm. Nhưng “Khe thần” linh thiêng lắm, đã phù hộ, giúp người dân bản rất nhiều.
Xưa kia nơi đây là vùng rừng núi âm u, hoang vu nhiều thú dữ, chưa có bóng người lai vãng. Mãi về sau người dân từ miền xuôi men theo sông Con lên đây khai thiên lập địa. Khi con người lên đây, thấy là một vùng có địa thế thuận lợi, xung quanh là đồi núi, cây cối xanh tươi, dưới là có nguồn nước trong xanh, nên họ chọn chỗ này là điểm "dừng chân". Người ta thấy kỳ lạ là, thú dữ nhiều nhưng không ăn thịt người mà nó trở nên hiền lành với người. Điều kỳ lạ nữa là khe suối này, mặc dù rất sâu nhưng suối luôn cứu giúp những trẻ em gặp nạn khi tắm, chưa cướp một mạng người nào cả. Hơn nữa, nguồn nước lại chảy ngược về hướng Tây trong khi thông thường dòng nước chảy về hướng Đông.
Câu chuyện càng huyền bí là ở nước "Khe thần" khi con gái dân bản tắm nước sẽ có làn da mịn màng, trắng trẻo. Bởi thế, con gái Thái đứa nào cũng xinh xắn, dễ thương. Già làng Lục Khánh còn nói đùa với chúng tôi: "Các con có thích làm con rể của người Thái không? Bố làm mối cho một cô. Đó là bố nói thế, chứ làm được con của người Thái cũng không đơn giản mô, ngoài tập tục, thì các con cũng phải có lòng gan dạ, dũng cảm, sức chịu đựng. Các con mà có ý định cưới một cô gái Thái thì trước khi làm chồng, các con phải đi ở, làm không công cho nhà gái 3 năm, ăn cơm đùm cơm gói, ngủ trên nương rẫy, nếu các con chịu được thử thách đó thì các con là người nhà Thái chúng tui rồi".
Câu chuyện của già làng khiến chúng tôi nghe say đắm, uống ngụm nước múc lên từ "Khe thần" mà ruột gan mát rười rượi, đắm say trong câu chuyện "thần tiên" hàng nghìn năm trước. Hình ảnh về "Khe thần" hiện ra trước mắt chúng tôi thật "linh thiêng" và "kỳ bí" biết nhường nào.
Từ khi người Thái chọn mảnh đất làm "dinh cơ", con đàn cháu đống lần lượt ra đời. "Mạch thánh" đã nuôi dưỡng con người Thái trưởng thành. Để tưởng nhớ các cụ tổ đã khai thiên lập địa vùng đất có "Khe thần" linh thiêng, người dân bản Thái đã cho xây dựng ngôi đền Hoàng Thành nằm bên "Khe thần". Cứ vào ngày 8-1 (âm lịch) hàng năm bà con làm cỗ đến tạ ơn. Chúng tôi được già làng Vi Tâm (người trông coi “Khe thần” và hàng năm hương khói ở ngôi đền) kể cho nghe: "Tui là người được dân bản cử trông coi Khe thần. Hàng ngày tui đều ngồi ở đây, không gian yên tĩnh đã gợi cho tôi những vần thơ ấm tình người".
"Khe thần" không chỉ cứu giúp con người mà biết trừ gian diệt ác, già làng Vi Tâm kể: "Khi người dân bản lên sinh sống, chăn nuôi gà vịt ở khe. Khi đàn vịt của người dân bản bị kẻ gian bắt trộm. Thấy uất ức, bao nhiêu vốn liếng đổ vô chăn nuôi bỗng trở nên tay trắng. Họ uất ức ra “Khe thần” cầu khấn mong thần hãy tìm kẻ gian đã bắt trộm gà, vịt của họ. Lời cầu khấn đó rất "linh nghiệm", ngày hôm sau họ đã tìm ra kẻ trộm, bắt họ phải đền đúng số gà vịt đã mất". Từ bao câu chuyện "thần kì" ở "Khe thần" đã được người Thái "tôn thờ". Bởi "Khe thần" đã mang lại cho họ nguồn nước trong lành, kì lạ thay là khi người dân bản uống nước đều có khả năng "trường thọ", con gái tắm thì có làn da rất đẹp và rất nhiều điều nữa chưa thể khám phá hết. Anh Vi Hùng (người dân trong bản) cho hay: "Người dân bản chúng tôi sinh sống nhờ nước ở khe, không có nước khe thì người Thái chúng tôi khó tồn tại. Từ tắm rửa, sinh hoạt,… thì khe còn cho chúng tôi nguồn tôm, cá". Già làng Vi Tâm còn tự hào: "Khe thần” là linh hồn của người Thái. “Khe thần” còn là điểm đến tâm linh cho huyện Tân Kỳ nói riêng và cả nước nói chung.
Bí thư Đảng ủy xã Nghĩa Bình, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, ông Lương Thành tâm sự: "Khe thần có từ xa xưa. Nhưng bao câu chuyện kỳ lạ từ Khe thần là có thật, "Khe thần" đã mang lại nhiều lợi ích cho người dân. Bởi thế, chính quyền địa phương đã cho xây dựng ngôi đền để tỏ lòng tri ân của người dân khi đến thắp hương cầu nguyện. Cứ vào ngày mồng 8-1 (âm lịch) xã tổ chức cúng lễ cầu nguyện rất lớn, không chỉ bà con trong huyện mà khách thập phương cũng tìm về nơi đây".
Cheo leo vượt đường rừng
Từ TP Vinh, tỉnh Nghệ An, chúng tôi ngược hơn 100 km đường đèo, dốc thẳm để đến "Khe thần". Vào "Khe thần" thuộc xã Nghĩa Bình, huyện Tân Kì, tỉnh Nghệ An phải mất hơn cả ngày đường quốc bộ, băng qua những thung lũng sâu xuyên qua bao ngọn núi, cánh rừng già âm u, đối chọi với muỗi, vắt, chông gai của cây rừng. Già làng Lục Khánh đã tình nguyện dẫn đường, hồi tưởng tâm niệm: Sự tích về “Khe thần” có từ xa xưa, người Thái chúng tôi truyền miệng nhau về sự linh thiêng, kỳ bí này. Khe thần là "ân nhân, bùa hộ mệnh" cho người dân tộc Thái. Bởi thế, bao đời nay chúng tôi đều thờ cúng “Khe thần".
Già làng cầm rựa đi đầu, chúng tôi theo sau. Luồn lách dưới những tán lá rừng sum suê rậm rạp, mùi ẩm bốc lên từ những đống lá cây rụng xuống tầng tầng lớp lớp, có chỗ nấm rừng mọc lên từng khóm trắng bạch. Leo qua con dốc thẳm, già làng Lục Khánh ngoái đầu lại hỏi: "Các con có mệt lắm không? Đường đến đó còn gian nan, chông gai lắm, phải cố gắng chịu đựng". Dọc đường đi già làng kể cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện để giảm sự mệt mỏi.
Đứng trên đỉnh ngọn núi có tên là Bồ Bồ mù sương, áp suất không khí chênh lệch đã khiến cho nhịp đập tim khó thở. Già làng chỉ tay, "Khe thần" còn nằm cách 2 ngọn núi nữa. Xa xa là đồi núi trập trùng, mây mù bốn mùa bao phủ. Anh bạn tỏ vẻ khâm phục các cụ ngày xưa: "Không biết các cụ ngày ấy đi bằng cách nào mà tìm ra “Khe thần” được, đi bằng chân mà leo trèo giỏi thật". Càng đi lên cao chúng tôi ngờm ngợp, choáng váng. Mừng thầm: Nếu như không có già làng Lục Khánh dẫn đường thì không bao giờ mơ tới cuộc chinh chiến “Khe thần”. Tận mắt chứng kiến, trực tiếp tham gia thì mới thấy sự gian nan, vất vả ở nơi "sơn cùng thủy tận" này.
Khi đứng trên đỉnh núi, già làng Lục Khánh ra hiệu: "Các con hãy bám chắc bố, không ai được rời tay nhau, sắp xuống hang xuyên qua núi, hang này khiến nhiều đoàn thám hiểm đều đầu hàng ở đây". Giây phút thót tim, nín thở lê theo từng bước chân, cuối cùng chúng tôi cũng đã chạm đến "Khe thần". Quang cảnh thật hoang sơ, không bóng người. Trước mắt làn nước trong xanh, làn gió nhẹ vi vu thổi qua rờn rợn nổi cả da gà. Tìm chỗ bóng cây cổ thụ, chúng tôi tạm ăn đồ ăn khô lót dạ sau cả ngày đường trèo đèo lội suối. Những câu chuyện huyền bí về “Khe thần” đã được Già làng kể tỉ mỉ cho chúng tôi nghe.
"Khe thần" trở thành điểm tâm linh nhất của người dân tộc Thái
Câu chuyện huyền thoại "Khe thần" Hơn một ngày đường đi bộ, đặt chân tới "Khe thần" trong lòng cảm thấy nhẹ nhõm, phía trước mặt mình là "địa chỉ lạ". Không gian núi rừng như đánh thức tâm trí muốn khám phá những điều còn là bí ẩn. Già làng Lục Khánh là người am hiểu nhất về tục lệ cũng như các luật lệ khi người lạ "nhập rừng". Soạn lễ, thắp hương cầu khấn, xin thần núi, thần khe… "Đây là luật lệ những người lạ khi vào “Khe thần”, ai mà không báo cáo với thần núi thì không may mắn, có thể tai họa đến với mình" - Già làng Lục Khánh chia sẻ.
Nằm lọt thỏm giữa đại ngàn, chúng tôi cùng với già làng trải lá rừng ngồi quây quần dưới gốc cây đại thụ, trên những cành cây tiếng chim hót líu lo. Những câu chuyện huyền thoại của già làng Lục Khánh đã cuốn hút chúng tôi chăm chú lắng nghe.
"Khe thần" được lưu truyền từ đời này qua đời khác, vẫn còn là câu chuyện huyền bí. Khi kể về quá khư, già làng Lục Khánh mắt ánh lên niềm tự hào, vui sướng về mảnh đất hào hùng cách mạng này. Mảnh đất nơi đây đã nuôi dưỡng những chiến sỹ cách mạng góp phần thắng lợi nước nhà. Già làng Lục Khánh giọng ồm ồm kể lại sự tích có tên "Khe thần": "Khe thần đã có cách đây hàng nghìn năm, cội nguồn về nó cũng chỉ người đời truyền miệng nhau, còn sự thật về nó cũng chưa rõ lắm. Nhưng “Khe thần” linh thiêng lắm, đã phù hộ, giúp người dân bản rất nhiều.
Xưa kia nơi đây là vùng rừng núi âm u, hoang vu nhiều thú dữ, chưa có bóng người lai vãng. Mãi về sau người dân từ miền xuôi men theo sông Con lên đây khai thiên lập địa. Khi con người lên đây, thấy là một vùng có địa thế thuận lợi, xung quanh là đồi núi, cây cối xanh tươi, dưới là có nguồn nước trong xanh, nên họ chọn chỗ này là điểm "dừng chân". Người ta thấy kỳ lạ là, thú dữ nhiều nhưng không ăn thịt người mà nó trở nên hiền lành với người. Điều kỳ lạ nữa là khe suối này, mặc dù rất sâu nhưng suối luôn cứu giúp những trẻ em gặp nạn khi tắm, chưa cướp một mạng người nào cả. Hơn nữa, nguồn nước lại chảy ngược về hướng Tây trong khi thông thường dòng nước chảy về hướng Đông.
Câu chuyện càng huyền bí là ở nước "Khe thần" khi con gái dân bản tắm nước sẽ có làn da mịn màng, trắng trẻo. Bởi thế, con gái Thái đứa nào cũng xinh xắn, dễ thương. Già làng Lục Khánh còn nói đùa với chúng tôi: "Các con có thích làm con rể của người Thái không? Bố làm mối cho một cô. Đó là bố nói thế, chứ làm được con của người Thái cũng không đơn giản mô, ngoài tập tục, thì các con cũng phải có lòng gan dạ, dũng cảm, sức chịu đựng. Các con mà có ý định cưới một cô gái Thái thì trước khi làm chồng, các con phải đi ở, làm không công cho nhà gái 3 năm, ăn cơm đùm cơm gói, ngủ trên nương rẫy, nếu các con chịu được thử thách đó thì các con là người nhà Thái chúng tui rồi".
Câu chuyện của già làng khiến chúng tôi nghe say đắm, uống ngụm nước múc lên từ "Khe thần" mà ruột gan mát rười rượi, đắm say trong câu chuyện "thần tiên" hàng nghìn năm trước. Hình ảnh về "Khe thần" hiện ra trước mắt chúng tôi thật "linh thiêng" và "kỳ bí" biết nhường nào.
Già làng Lục Khánh tình nguyện làm "hướng dẫn viên du lịch" đến với "Khe thần"
Tôn thờ… "Khe thần"Từ khi người Thái chọn mảnh đất làm "dinh cơ", con đàn cháu đống lần lượt ra đời. "Mạch thánh" đã nuôi dưỡng con người Thái trưởng thành. Để tưởng nhớ các cụ tổ đã khai thiên lập địa vùng đất có "Khe thần" linh thiêng, người dân bản Thái đã cho xây dựng ngôi đền Hoàng Thành nằm bên "Khe thần". Cứ vào ngày 8-1 (âm lịch) hàng năm bà con làm cỗ đến tạ ơn. Chúng tôi được già làng Vi Tâm (người trông coi “Khe thần” và hàng năm hương khói ở ngôi đền) kể cho nghe: "Tui là người được dân bản cử trông coi Khe thần. Hàng ngày tui đều ngồi ở đây, không gian yên tĩnh đã gợi cho tôi những vần thơ ấm tình người".
"Khe thần" không chỉ cứu giúp con người mà biết trừ gian diệt ác, già làng Vi Tâm kể: "Khi người dân bản lên sinh sống, chăn nuôi gà vịt ở khe. Khi đàn vịt của người dân bản bị kẻ gian bắt trộm. Thấy uất ức, bao nhiêu vốn liếng đổ vô chăn nuôi bỗng trở nên tay trắng. Họ uất ức ra “Khe thần” cầu khấn mong thần hãy tìm kẻ gian đã bắt trộm gà, vịt của họ. Lời cầu khấn đó rất "linh nghiệm", ngày hôm sau họ đã tìm ra kẻ trộm, bắt họ phải đền đúng số gà vịt đã mất". Từ bao câu chuyện "thần kì" ở "Khe thần" đã được người Thái "tôn thờ". Bởi "Khe thần" đã mang lại cho họ nguồn nước trong lành, kì lạ thay là khi người dân bản uống nước đều có khả năng "trường thọ", con gái tắm thì có làn da rất đẹp và rất nhiều điều nữa chưa thể khám phá hết. Anh Vi Hùng (người dân trong bản) cho hay: "Người dân bản chúng tôi sinh sống nhờ nước ở khe, không có nước khe thì người Thái chúng tôi khó tồn tại. Từ tắm rửa, sinh hoạt,… thì khe còn cho chúng tôi nguồn tôm, cá". Già làng Vi Tâm còn tự hào: "Khe thần” là linh hồn của người Thái. “Khe thần” còn là điểm đến tâm linh cho huyện Tân Kỳ nói riêng và cả nước nói chung.
Bí thư Đảng ủy xã Nghĩa Bình, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, ông Lương Thành tâm sự: "Khe thần có từ xa xưa. Nhưng bao câu chuyện kỳ lạ từ Khe thần là có thật, "Khe thần" đã mang lại nhiều lợi ích cho người dân. Bởi thế, chính quyền địa phương đã cho xây dựng ngôi đền để tỏ lòng tri ân của người dân khi đến thắp hương cầu nguyện. Cứ vào ngày mồng 8-1 (âm lịch) xã tổ chức cúng lễ cầu nguyện rất lớn, không chỉ bà con trong huyện mà khách thập phương cũng tìm về nơi đây".
Theo Lê Tập (Pháp luật & Xã hội)
Nguồn nước được xuất phát từ 3 cái mó nước từ trong lòng đất chảy ra, mùa đông nước ấm còn mùa hè mát lạnh. Từ xưa người dân bản Bắc Sơn thường ra đây tắm mát. Không chỉ dân thường mà ngay các quan cũng tắm ở đây.
Dọc bên dòng Khe Xanh có hai vụng tắm, thông thiên với dòng Khe Xanh, mà theo sự tích các cụ kể lại thì nó là nơi mà quan ông và quan bà thời nghĩa quân Lê Lợi vào đóng quân ở vùng đất này thường tắm. Trong đó một vụng phía trên có tên gọi là vụng Cả Quan là nơi cho quan ông thời Lê Lợi tắm; còn một vụng phía dưới có tên gọi là vụng Mó Tôm là nơi cho quan bà tắm.
Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta khi đóng quân ở đây vẫn thường rủ nhau đi tắm ở vụng nước này. Các lý trưởng, cường hào thời phong kiến cũng thường tắm ở hai vũng nước này vì vậy nơi đây mới có tên vụng Cả Quan.
Lại có chuyện kể rằng, ngày xưa nơi đây là cổng trời, Ngọc Hoàng thường cho tiên nữ xuống tắm ở dòng suối này nên mới có tên là vũng nước tiên.
Theo lịch sử và tác động của con người, ngày nay vũng Mó Tôm đã bị tác động phần nào. Còn vũng Cả Quan thì gần như vẫn giữ được vẻ đẹp và nguyên những gì sự tích để lại.
Trong hơn nước khoáng
Quả thực như lời kể, những câu chuyện về dòng suối ở đây không sai. Khi đó đã xế trưa, thấy tôi dừng xe bên dòng suối nhiều nam thanh nữ tú đang tắm mát ở đây liền hét lên: “Có khách lạ đến tắm suối tiên…“. Theo chân một số người đi tắm, vượt qua được ngọn núi khá cao rồi tận mắt chứng kiến được vũng tắm tiên.
Anh Phong người làng Bắc Sơn giới thiệu: “Mùa hè hầu như ngày mô tui cũng ra đây tắm. Nói về tắm thì chắc trên đời này không có chỗ mô tắm sướng bằng vũng nước tiên này. Nhiều buổi trưa hè nắng đến 39 - 40 độ C nhưng ra ngâm mình xuống vũng nước này sẽ mát thấu xương. Nhưng lạ là về mùa đông nếu tắm lại ấm như tắm bình nóng lạnh...”.
Quan sát vũng nước tiên này có diện tích rộng chừng 40m2, dưới đáy là đá màu trắng. Điều kỳ lạ là ở giữa vũng nước lại có một hố nước sâu chừng 4 mét, rộng hơn 1 mét và dài khoảng 3 mét.
Khi anh Phong lao mình xuống hố nước này thì làn da của anh trắng bóc một cách lạ thường. Lấy một hòn đá bằng ngón tay cái tôi tiến đến thả nhẹ xuống hố nước này thì thấy hòn đá đi xuống tận đáy chừng 3-4 mét. Cái khó tin là nhìn bằng mắt thường gần như tuyệt đối không tìm thấy một vệt cấn dù nhỏ nhất. Không tin nổi độ trong của dòng nước nơi đây, sẵn chai nước khoáng La Vie trong ba lô tôi liền múc đầy vỏ chai này giơ lên.
Thật không tin nổi là nước ở vũng này còn trong xanh hơn cả nước khoáng nguyên chất đóng chai sẵn. Anh Phong cười rồi nói: “Không phải mình anh công nhận nước ở đây trong hơn nước khoáng đóng chai đâu mà hầu hết ai đến đây cũng đều công nhận điều đó. Có năm mùa hạn hán hết nước người dân lại tìm đến đây để múc nước gánh về nhà làm nước ăn…“.
Đẹp nhất phải nói xung quanh hố sâu ở vũng nước này là những vách đá với nhiều hình thù như hình con cá, con chim, con hạc... đứng trên dễ dàng nhìn xuyên qua lớp nước để ngắm. Nếu để hố nước này yên sẽ dễ dàng thấy bọt tăm sôi ùn ùn từ dưới lên, điều này cũng minh chứng rằng nguồn nước ở Khe Xanh chính là khởi nguồn từ những mạch nước ngầm như thế này.
Nói về mạch nước ngầm ở Khe Xanh, ông Phan Văn Ngũ - Bí thư Đảng ủy xã Nghĩa Phúc, một người biết khá rõ về dòng suối nơi đây khẳng định: “Đúng là dòng Khe Xanh ở đây nước không bao giờ cạn. Mặc dù vào mùa hạn không hề có nguồn nước từ nơi khác chảy về nhưng nước ở Khe Xanh vẫn chảy đều. Nguồn nước chủ yếu trong mó nước ở ngay dưới vũng nước tiên và lòng khe ùn ra...”.
Ngôi đền linh thiêng
Cách dòng Khe Xanh chừng 20 mét có một ngôi đền mà người dân địa phương vẫn quen gọi đền Khe Xanh. Ngôi đền này gắn liền nhiều câu chuyện với dòng Khe Xanh và vũng nước tiên.
Theo cụ Trương Văn Đại - người trông coi ngôi đền đã hơn 10 năm nay cho biết tên chính thức của đền là đền thờ Đức ông Lê Mạnh (một đại tướng quân thời Lê Lợi), tướng quân đi đánh giặc về và mất ở đây nên người dân đã lập đền thờ. Còn theo sử sách thì Đức ông Lê Mạnh là 1 trong 12 vị tướng giỏi của Vua Mai Hắc Đế.
Bây giờ cũng không ai nhớ rõ là đền thờ Đức ông Lê Mạnh có từ lúc nào, nhưng đối với người dân bản Bắc Sơn nói riêng và xã Nghĩa Phúc cũng như các vùng lân cận thì đây là một ngôi đền linh thiêng.
Hỏi người dân Bắc Sơn không ai không thuộc lòng những câu chuyện gắn liền với ngôi đền Đức ông Lê Mạnh như ngày xưa ở vùng Khe Xanh này có nhiều thú dữ như hổ, báo, lợn rừng... Hễ ai muốn đi qua Khe Xanh và khu vực này để vào bản, đặc biệt là ban đêm thì phải mang theo dao, mác, gậy gộc… và phải đi đông người thì mới mong không bị thú dữ ăn thịt. Thế nhưng từ lúc mọi người truyền tai nhau là mỗi lần muốn đi qua khu vực này hãy vào thắp nén nhang ở ngôi đền thì thú dữ không dám đụng tới.
Rời bản Bắc Sơn khi hoàng hôn ẩn sau những dãy tre làng, tôi vẫn nhớ mãi câu thơ được người dân xã Nghĩa Phúc từ trẻ em mẫu giáo đến các cụ cao tuổi đều thuộc lòng mỗi khi giới thiệu vắn tắt về quê hương mình:
Kỳ bí vũng nước con gái tắm sẽ đẹp da ở xứ Nghệ
Lâu
nay, nhiều người vẫn truyền tai nhau ở Nghệ An có một dòng suối mà ở đó
có vũng nước trong vắt đến lạ thường khi một hòn đá chỉ bằng đầu ngón
tay nằm dưới độ sâu chừng 3 - 4 mét vẫn có thể nhìn thấy bằng mắt
thường. Dòng nước này mát lạnh về mùa hè lại ấm về mùa đông, kỳ lạ hơn
là nước ở đây ùn từ dưới lòng đất lên chứ không hề bắt nguồn từ dòng
chảy khác, con gái tắm ở vũng nước này thì có làn da trắng hồng hào...
Sự tích “vũng nước tiên”
Tìm về xã Nghĩa Phúc, huyện Tân Kỳ(Nghệ An) giữa tiết trời nắng chang chang tôi hỏi địa chỉ dòng suối có vũng nước mát lạnh, chị Hà bán hàng tạp hóa ở trung tâm xã nhanh nhảu: “Rứa chú ở mô mà cũng về đây tắm mát ở suối nước tiên này. Chú mà tắm ở đây một lần thì về nhớ cả đời, không chừng lại nghiện” - chị Hà khẳng định.
Tìm đến bản Bắc Sơn (nơi gần như là 100% đồng bào dân tộc Thổ sinh sống), đây cũng chính là nơi có con suối và vũng nước tiên kỳ lạ. Mặc dù không có tư liệu nào ghi chép nhưng theo lời kể của các cụ cao niên thì suối nước này có từ khi nào không ai biết, khi lớn lên ai cũng bảo là có dòng suối này rồi với tên gọi là Khe Xanh. Nhiều người còn đặt cho nó cái tên “suối tiên“.
Sự tích “vũng nước tiên”
Tìm về xã Nghĩa Phúc, huyện Tân Kỳ(Nghệ An) giữa tiết trời nắng chang chang tôi hỏi địa chỉ dòng suối có vũng nước mát lạnh, chị Hà bán hàng tạp hóa ở trung tâm xã nhanh nhảu: “Rứa chú ở mô mà cũng về đây tắm mát ở suối nước tiên này. Chú mà tắm ở đây một lần thì về nhớ cả đời, không chừng lại nghiện” - chị Hà khẳng định.
Tìm đến bản Bắc Sơn (nơi gần như là 100% đồng bào dân tộc Thổ sinh sống), đây cũng chính là nơi có con suối và vũng nước tiên kỳ lạ. Mặc dù không có tư liệu nào ghi chép nhưng theo lời kể của các cụ cao niên thì suối nước này có từ khi nào không ai biết, khi lớn lên ai cũng bảo là có dòng suối này rồi với tên gọi là Khe Xanh. Nhiều người còn đặt cho nó cái tên “suối tiên“.
Cận cảnh vũng nước tiên (vũng Cả Quan) ở Khe Xanh nước trong vắt đẹp mê hồn |
Nguồn nước được xuất phát từ 3 cái mó nước từ trong lòng đất chảy ra, mùa đông nước ấm còn mùa hè mát lạnh. Từ xưa người dân bản Bắc Sơn thường ra đây tắm mát. Không chỉ dân thường mà ngay các quan cũng tắm ở đây.
Dọc bên dòng Khe Xanh có hai vụng tắm, thông thiên với dòng Khe Xanh, mà theo sự tích các cụ kể lại thì nó là nơi mà quan ông và quan bà thời nghĩa quân Lê Lợi vào đóng quân ở vùng đất này thường tắm. Trong đó một vụng phía trên có tên gọi là vụng Cả Quan là nơi cho quan ông thời Lê Lợi tắm; còn một vụng phía dưới có tên gọi là vụng Mó Tôm là nơi cho quan bà tắm.
Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta khi đóng quân ở đây vẫn thường rủ nhau đi tắm ở vụng nước này. Các lý trưởng, cường hào thời phong kiến cũng thường tắm ở hai vũng nước này vì vậy nơi đây mới có tên vụng Cả Quan.
Lại có chuyện kể rằng, ngày xưa nơi đây là cổng trời, Ngọc Hoàng thường cho tiên nữ xuống tắm ở dòng suối này nên mới có tên là vũng nước tiên.
Theo lịch sử và tác động của con người, ngày nay vũng Mó Tôm đã bị tác động phần nào. Còn vũng Cả Quan thì gần như vẫn giữ được vẻ đẹp và nguyên những gì sự tích để lại.
Trong hơn nước khoáng
Quả thực như lời kể, những câu chuyện về dòng suối ở đây không sai. Khi đó đã xế trưa, thấy tôi dừng xe bên dòng suối nhiều nam thanh nữ tú đang tắm mát ở đây liền hét lên: “Có khách lạ đến tắm suối tiên…“. Theo chân một số người đi tắm, vượt qua được ngọn núi khá cao rồi tận mắt chứng kiến được vũng tắm tiên.
Anh Phong người làng Bắc Sơn giới thiệu: “Mùa hè hầu như ngày mô tui cũng ra đây tắm. Nói về tắm thì chắc trên đời này không có chỗ mô tắm sướng bằng vũng nước tiên này. Nhiều buổi trưa hè nắng đến 39 - 40 độ C nhưng ra ngâm mình xuống vũng nước này sẽ mát thấu xương. Nhưng lạ là về mùa đông nếu tắm lại ấm như tắm bình nóng lạnh...”.
Đền thờ Đức ông Lê Mạnh |
Quan sát vũng nước tiên này có diện tích rộng chừng 40m2, dưới đáy là đá màu trắng. Điều kỳ lạ là ở giữa vũng nước lại có một hố nước sâu chừng 4 mét, rộng hơn 1 mét và dài khoảng 3 mét.
Khi anh Phong lao mình xuống hố nước này thì làn da của anh trắng bóc một cách lạ thường. Lấy một hòn đá bằng ngón tay cái tôi tiến đến thả nhẹ xuống hố nước này thì thấy hòn đá đi xuống tận đáy chừng 3-4 mét. Cái khó tin là nhìn bằng mắt thường gần như tuyệt đối không tìm thấy một vệt cấn dù nhỏ nhất. Không tin nổi độ trong của dòng nước nơi đây, sẵn chai nước khoáng La Vie trong ba lô tôi liền múc đầy vỏ chai này giơ lên.
Thật không tin nổi là nước ở vũng này còn trong xanh hơn cả nước khoáng nguyên chất đóng chai sẵn. Anh Phong cười rồi nói: “Không phải mình anh công nhận nước ở đây trong hơn nước khoáng đóng chai đâu mà hầu hết ai đến đây cũng đều công nhận điều đó. Có năm mùa hạn hán hết nước người dân lại tìm đến đây để múc nước gánh về nhà làm nước ăn…“.
Đẹp nhất phải nói xung quanh hố sâu ở vũng nước này là những vách đá với nhiều hình thù như hình con cá, con chim, con hạc... đứng trên dễ dàng nhìn xuyên qua lớp nước để ngắm. Nếu để hố nước này yên sẽ dễ dàng thấy bọt tăm sôi ùn ùn từ dưới lên, điều này cũng minh chứng rằng nguồn nước ở Khe Xanh chính là khởi nguồn từ những mạch nước ngầm như thế này.
Nói về mạch nước ngầm ở Khe Xanh, ông Phan Văn Ngũ - Bí thư Đảng ủy xã Nghĩa Phúc, một người biết khá rõ về dòng suối nơi đây khẳng định: “Đúng là dòng Khe Xanh ở đây nước không bao giờ cạn. Mặc dù vào mùa hạn không hề có nguồn nước từ nơi khác chảy về nhưng nước ở Khe Xanh vẫn chảy đều. Nguồn nước chủ yếu trong mó nước ở ngay dưới vũng nước tiên và lòng khe ùn ra...”.
Ngôi đền linh thiêng
Cách dòng Khe Xanh chừng 20 mét có một ngôi đền mà người dân địa phương vẫn quen gọi đền Khe Xanh. Ngôi đền này gắn liền nhiều câu chuyện với dòng Khe Xanh và vũng nước tiên.
Theo cụ Trương Văn Đại - người trông coi ngôi đền đã hơn 10 năm nay cho biết tên chính thức của đền là đền thờ Đức ông Lê Mạnh (một đại tướng quân thời Lê Lợi), tướng quân đi đánh giặc về và mất ở đây nên người dân đã lập đền thờ. Còn theo sử sách thì Đức ông Lê Mạnh là 1 trong 12 vị tướng giỏi của Vua Mai Hắc Đế.
Bây giờ cũng không ai nhớ rõ là đền thờ Đức ông Lê Mạnh có từ lúc nào, nhưng đối với người dân bản Bắc Sơn nói riêng và xã Nghĩa Phúc cũng như các vùng lân cận thì đây là một ngôi đền linh thiêng.
Hỏi người dân Bắc Sơn không ai không thuộc lòng những câu chuyện gắn liền với ngôi đền Đức ông Lê Mạnh như ngày xưa ở vùng Khe Xanh này có nhiều thú dữ như hổ, báo, lợn rừng... Hễ ai muốn đi qua Khe Xanh và khu vực này để vào bản, đặc biệt là ban đêm thì phải mang theo dao, mác, gậy gộc… và phải đi đông người thì mới mong không bị thú dữ ăn thịt. Thế nhưng từ lúc mọi người truyền tai nhau là mỗi lần muốn đi qua khu vực này hãy vào thắp nén nhang ở ngôi đền thì thú dữ không dám đụng tới.
Rời bản Bắc Sơn khi hoàng hôn ẩn sau những dãy tre làng, tôi vẫn nhớ mãi câu thơ được người dân xã Nghĩa Phúc từ trẻ em mẫu giáo đến các cụ cao tuổi đều thuộc lòng mỗi khi giới thiệu vắn tắt về quê hương mình:
“Có ai hỏi nơi nào đẹp nhất
Tôi trả lời Nghĩa Phúc quê tôi
Có dãy lèn cao chót vót tận chân trời
Có Khe Xanh hai dòng nóng lạnh”
Tôi trả lời Nghĩa Phúc quê tôi
Có dãy lèn cao chót vót tận chân trời
Có Khe Xanh hai dòng nóng lạnh”
VTC
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét