Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2011

Độc đáo giếng cổ xứ Đoài

Giếng làng trở thành biểu tượng thiêng liêng trong tâm thức cộng đồng người Việt Bắc bộ. Vì vậy, ở xứ Đoài, người làng thường xây trên bờ một bệ thờ lộ thiên hoặc ngôi miếu nhỏ để tỏ lòng thành kính. 




Xứ Đoài (Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội) là nơi còn lưu nhiều giếng cổ. Đặc biệt, vùng trung du, nay là các huyện Ba Vì, Thạch Thất, thành phố Sơn Tây… còn nhiều giếng xây bằng đá ong, đất, qua bao nhiêu biến cố thời gian, nước còn trong và mát.
Người xưa đào sâu xuống lòng đất, đúng mạch, nước dâng lên vừa trong vừa mát. Loại đá nơi đây đào đến đâu, cứng đến đó nên không phải kè thành. Giếng thường rộng 3 - 5 m, sâu trên 10 m, miệng đặt những tảng đá ong nguyên khối hoặc từng tảng ghép lại vừa bền chắc mà sạch sẽ. 


Giếng đá ong thường đặt ở đầu làng, giữa xóm, hai bên đình, chùa theo quan niệm là đôi mắt rồng thiêng, nước nguồn không bao giờ cạn. Đình Mông Phụ, làng cổ Đường Lâm vẫn còn nguyên hai chiếc. Làng Đông Sàng đặt giếng ở khuôn viên văn chỉ, tôn thêm vẻ đẹp và khơi nguồn trí tuệ Nho học. Ở làng Cam Lâm, phía trước khu lăng mộ Ngô Quyền lại có một chiếc ở dưới chân đồi. Nước giếng vùng này thường mát về mùa hè, ấm về mùa đông, nên có câu“Nước giếng hè - chè Cam Lâm”.
GIếng đá ong xóm Miễu, làng Mông Phụ, Đường Lâm, Sơn Tây.
Khu vực Phủ Quốc (Quốc Oai), gần núi đá vôi, nhân dân khi đào giếng lấy đá hộc xếp quanh từ dưới đáy lên mặt. Phía trên gắn bằng vôi, xi măng tạo thành các hình tròn, vuông, bán nguyệt rất đẹp mắt. Xung quanh núi Thày (Sài Sơn) hiện còn những giếng cổ ở xóm Tân Hương, Chùa, Đình… nước trong, mát quanh năm. Nơi đây có loại lớn trên 10 m, đo qua miệng giếng. Loại nhỏ hơn từ 3 m đến 5 m, hiện vẫn sử dụng tốt. Nhiều chiếc ở phía dưới kè đá, trên xây gạch, lát sân giếng, tường bao quanh, tạo cảnh quan sạch đẹp cho xóm làng.
Vùng đồng bằng như các huyện: Đan Phượng, Hoài Đức, Phúc Thọ… phần nhiều là giếng đất, đào đắp trước cửa đình, chùa, đền, miếu… làm minh đường cho di tích, theo thuyết phong thuỷ của đạo nho. Giếng này thường to, rộng hơn các giếng khơi, trung bình khoảng 20 - 30 m bề ngang. Xung quanh giếng xây tường bảo vệ, có lối đi xuống bằng gạch hoặc đá ong, trên bờ trồng cây đa cổ thụ, cây gạo hoặc cây muỗm xum xuê cành lá.
Giếng làng trở thành biểu tượng thiêng liêng trong tâm thức cộng đồng. Trên bờ, người làng thường xây một bệ thờ lộ thiên hoặc miếu nhỏ để tỏ lòng thành kính.  


Làng Thượng Hội, xã Tân Hội, huyện Đan Phượng còn nguyên ba giếng cổ ở đầu, giữa và cuối làng. Chiếc ở đầu làng hình vuông, tượng trưng cho đất mẹ, chứa muôn ngàn tia sữa, nuôi dưỡng con người và soi bóng ngôi chùa cổ kính. Giữa làng, giếng xây tròn vành vạnh, dân thôn coi đó là hình mặt trời để ngày ngày luôn có ánh dương toả chiếu, hoà khí của âm dương cho con người hạnh phúc. Ở cuối làng là chiếc có hình bầu dục, như một tấm gương lớn khúc xạ ánh mặt trời, phản chiếu điều lành soi sáng cho cả làng. Giếng được xây gạch cẩn thận, có bậc lên xuống để gánh nước, tường xây gạch bao quanh, bệ thờ thần giếng vững chắc.
Huyện Hoài Đức có vùng quê xưa là Kẻ Giá, nay là xã Yên Sở, còn gọi làng Dừa, từ xưa có câu: “Đình không xà, làng bảy mươi ba cái giếng”. Hiện, xã chỉ còn trên 20 cái giếng cổ. Mỗi cái có một phiến gỗ lim dày, to lát đáy, xung quanh xếp đá quây tròn, không có hồ vữa mà vẫn chắc chắn. Giếng sâu độ 4 - 5 m, phía trên xây gạch vòng quanh. Cạnh đó có miếu thờ thần linh. Vào ngày mồng một, rằm hàng tháng, người dân mang lễ vật dâng cúng, cầu may.
Quán Linh Tiên ở Cao Xá (Hoài Đức) được tu tạo từ đời nhà Mạc (1584) tiêu biểu cho một quán Đạo giáo. Trên thượng điện là tượng Tam Thanh gồm: Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh; phía dưới là các tượng Cửu Thiên, Huyền Mẫu và Trấn Vũ Thánh… Đặc biệt là trong hậu cung của quán còn một hố giếng sâu, tục truyền là huyệt đan sa, vốn là lò luyện đan trường sinh bất tử của các đạo sĩ. Đến nay, nước giếng vẫn tinh khiết, dùng cúng lễ và ban lộc cho các tín đồ.
Nước giếng cổ từ xưa được đề cao: “Cơm ăn mỗi bữa một trâu/Không bằng tắm nước ao Chầu Liều Viên/Cơm ăn mỗi bữa mỗi gà/Không bằng tắm nước Đường Hoa kẻ Ngườm”
Ngày nay, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng nâng cao. Từ giếng đất, giếng khơi rồi thay thế bằng giếng khoan, nước máy… Từ thành thị đến nông thôn các nguồn nước sạch phong phú, tràn trề. Tuy nhiên các giếng cổ vẫn tồn tại ở các vùng từ bán sơn địa đến đồng bằng. Số lượng các giếng cổ có ít đi nhưng giá trị của nó vẫn rất quý. Nước giếng cổ trong, sạch, mát vào mùa hè, ấm vào mùa đông. Giá trị tâm linh của giếng gắn bó tình cảm con người với tạo hoá. Có giếng cổ, cảnh quan môi trường càng đẹp, kỷ niệm tuổi ấu thơ bên giếng làng dễ mấy ai quên. Các di tích lịch sử - văn hoá có hình ảnh giếng cổ thì giá trị càng tăng.

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Minh Nhương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét