(TN Xuân) Gia Miêu ngoại trang xưa thuộc tổng Thượng Bạn (huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa), nay thuộc xã Hà Long (huyện Hà Trung, Thanh Hóa), là nơi phát tích của vương triều Nguyễn.
Đình Gia Miêu với những nét kiến trúc độc đáo, tinh xảo bậc nhất xứ Thanh hiện nay - Ảnh: Ngọc Minh
|
Trải bao biến cố lịch sử, những lăng, miếu uy nghi được các vua Nguyễn dựng lên trên mảnh đất quý hương thờ tổ tiên đã bị hủy hoại. Những dấu tích vàng son đã nhạt, nhưng trong lòng mỗi người con họ Nguyễn nói riêng và người dân Thanh Hóa nói chung, Gia Miêu ngoại trang luôn là đất thang mộc, đời đời được coi trọng…
Linh thiêng núi Triệu Tường
Dẫn tôi đi thăm núi Triệu Tường (còn gọi là núi Thiên Tôn) trên vùng đất Gia Miêu ngoại trang, ông Nguyễn Hữu Thoại, Trưởng tộc dòng họ Nguyễn Hữu ở Gia Miêu, kể rằng thời các vua Nguyễn, nơi đây là rừng cấm, được bảo vệ nghiêm ngặt. Mỗi lần nhà vua về bái yết tổ tiên, chỉ có trưởng tộc dòng họ Nguyễn Hữu mới được phép tháp tùng, rước vua lên nền Phương Cơ dưới núi Triệu Tường để tế cáo trời đất tổ tiên. “Sở dĩ phải bảo vệ nghiêm ngặt là vì triều đình đề phòng kẻ gian lên núi yểm bùa, cắt đứt long mạch vượng phát của vương triều”, ông Thoại giải thích.
Sử cũ chép, năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lập nên triều Mạc. Một số cận thần của nhà Lê chạy qua Ai Lao, trong đó có An Thành hầu Nguyễn Kim (hậu duệ 4 đời của Bình Ngô khai quốc công thần Nguyễn Công Duẩn, quê ở Gia Miêu ngoại trang). Về sau, Nguyễn Kim tìm được con vua Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh ở Thanh Hóa mang sang Ai Lao lập làm vua, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa (vua Lê Trang Tông, trị vì từ 1533 - 1548), khởi đầu sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Vua Trang Tông tin dùng phong cho Nguyễn Kim làm Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công Trưởng nội ngoại sự để phò giúp diệt Mạc, lấy lại cơ nghiệp.
Sự nghiệp lẫy lừng của Nguyễn Kim bị dừng lại vào năm Ất Tỵ (1545), khi ông bị tướng Dương Chấp Nhất của nhà Mạc trá hàng đầu độc giết chết, thọ 78 tuổi. Vua Lê thương tiếc, truy ban tước Chiêu huân Tĩnh công, dùng lễ hậu đưa thi hài về táng ở núi Triệu Tường.
Chỉ vùng rừng núi thâm u, ông Thoại quả quyết mộ Triệu tổ Tĩnh hoàng đế Nguyễn Kim được táng trúng miệng rồng, là nơi tụ hội khí thiêng sông núi, là huyệt đạo phát vương về sau. Tương truyền, khi quan lính vừa đặt quan tài xuống huyệt, bỗng đâu trời nổi cơn sấm sét, mưa gió ầm ầm, miệng huyệt từ từ khép lại, mọi người kinh hãi chạy xuống núi. Một lát sau trời quang mây tạnh, mọi người trở lại thì chỉ thấy nơi đặt quan tài đá núi lô nhô, trùng điệp, cây cỏ tốt tươi, không biết mộ táng nơi nào. Từ đấy núi có tên là Thiên Tôn. Về sau, mỗi lần tế bái Triệu tổ, các vua nhà Nguyễn chỉ biết trông lên núi Thiên Tôn mà bái vọng.
Lăng Trường Nguyên và nền Phương Cơ dưới chân núi Thiên Tôn - Ảnh: Ngọc Minh
|
Đất quý hương
Thế phả họ Nguyễn ghi, vị tổ Nguyễn Công Duẩn là hậu duệ 10 đời của Định Quốc công Nguyễn Bặc (người có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân lập lên nhà Đinh). Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Công Duẩn đã cung cấp 10 vạn thạch lương, 350 thùng mắm muối, có công lớn trong nhiều trận chiến với quân Minh. Sau khi giành lại giang sơn, Lê Thái Tổ phong cho Nguyễn Công Duẩn tước Thái bảo Hoàng công, cho con cháu đời đời làm quan triều Lê. Nguyễn Công Duẩn sinh được 7 người con, trong đó có Nguyễn Như Trác. Nguyễn Kim là cháu nội của Nguyễn Như Trác.
Nguyễn Kim có 3 người con, con gái là Ngọc Bảo, lấy Dực Quận công Trịnh Kiểm (người sau này mở đầu cho các chúa Trịnh ở Đàng ngoài), hai con trai Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng đều là những tướng giỏi được vua Lê phong chức Quận công. Tương truyền sau khi cha mất, anh trai bị bức hại, Nguyễn Hoàng đã tìm đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xin mưu kế. Sau khi được Trạng Trình khuyên câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, Nguyễn Hoàng đã xin triều đình đi trấn thủ xứ Thuận Hóa để tránh xa sự kiềm chế của anh rể và mưu đồ, tạo dựng sự nghiệp riêng cho họ Nguyễn. Rời Gia Miêu ngoại trang, năm 1558 Nguyễn Hoàng vượt Hoành Sơn về phương nam, để rồi từ đây dòng họ Nguyễn khởi lập lên xứ Đàng trong với sự nghiệp mở mang bờ cõi lẫy lừng, trải 9 chúa, 13 vua nối nhau giữ gìn cơ nghiệp.
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh (hậu duệ đời thứ 11 của Nguyễn Kim) đã thống nhất hai xứ Đàng trong và Đàng ngoài lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long, quốc hiệu là Việt Nam. Sau một năm lên ngôi, nhân chuyến tuần thú Bắc Hà, vua Gia Long tìm về đất tổ Gia Miêu ngoại trang yết bái tổ tiên, truy tôn Nguyễn Kim là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế. Nhà vua cho đắp nền Phương Cơ, dựng lăng Trường Nguyên (lăng Triệu Tường) thờ Triệu tổ ngay dưới chân núi Thiên Tôn. Khu miếu Triệu Tường cách lăng Triệu Tường chừng hơn 1 km để thờ cúng tổ tiên. Đình Gia Miêu cũng được xây dựng để tri ân quê gốc. Dịp này, nhà vua vinh phong Gia Miêu ngoại trang là đất quý hương, huyện Tống Sơn là quý huyện để đời đời con cháu nhớ về tổ tông dòng tộc.
Miếu Triệu Tường có chu vi khoảng 182 trượng, có tường thành xây kín, bao quanh có hào nước, cầu gạch bắc qua, lại có 2 lớp lũy bao bọc nên được ví như một tòa thành. Cửa nam có một vọng lâu, cổng tam quan, phía sau là hồ sen hình bán nguyệt. Miếu được chia làm 3 khu vực: khu chính giữa là Nguyên miếu thờ Triệu tổ Tĩnh hoàng đế Nguyễn Kim và Thái tổ Gia Dụ hoàng đế Nguyễn Hoàng; khu vực bên đông là Trừng Quốc công miếu thờ Trừng Quốc công Nguyễn Văn Lựu (thân phụ của Nguyễn Kim) và Lỵ Nhân công Nguyễn Hán (con trai Nguyễn Hoàng); phía tây là trại lính và nhà ở của gia nhân các quan trông coi lăng miếu. Đây là công trình văn hóa tâm linh đặc biệt của vương triều Nguyễn.
Cùng tôi thăm công trường phục dựng miếu Triệu Tường, ông Nguyễn Hữu Thoại ngậm ngùi: “Năm 1947, lăng miếu vẫn còn uy nghi lắm nhưng vào những năm 1950 - 1960 đã bị phá dỡ, trở thành đống đổ nát. Cả dòng họ nuốt nước mắt buồn tủi vào trong”.
Cũng may, vẫn theo lời ông Thoại, ơn nhờ phúc ấm tổ tiên, lăng miếu Triệu Tường đang được đầu tư phục dựng lại như xưa. Con cháu họ Nguyễn khắp nơi và người dân Gia Miêu ngoại trang mừng vui lắm.
Miếu Triệu Tường ở Gia Miêu ngoại trang (ảnh tư liệu chụp năm 1945) - Ảnh: Ngọc Minh chụp lại
|
Đất chứa khí thiêng sinh ra Triệu tổ
Ông Nguyễn Hữu Thoại cho biết, theo các ghi chép còn lại thì tất thảy có 5 vị vua triều Nguyễn đã về Gia Miêu ngoại trang tế bái tổ tiên, gồm: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Thành Thái và Bảo Đại, trong đó vua Bảo Đại về nhiều lần nhất.
Năm 1822, vua Minh Mạng trong lần về bái yết đã làm bài minh, mở đầu với những câu “Đất chứa khí thiêng sinh ra Triệu tổ/Vun đắp cương thường tỏ rõ thánh võ...”, ca ngợi công đức của Nguyễn Kim, tri ân mảnh đất linh thiêng mà trời đã ban cho họ Nguyễn, rồi dựng bia ngay dưới chân núi Thiên Tôn. Vua Bảo Đại, năm 1936, cũng đã đề đôi câu đối ở nhà thờ họ Nguyễn Hữu để ghi nhớ tổ tiên: “Đường sâm tùng trúc thái sinh quang/Tòa phúc chi lan hương công khoát” (Tạm dịch: Trong đình cây tùng cây trúc xum xuê, ánh sáng rực rỡ/Trên tòa cỏ chi, cỏ lan hương thơm quyện vào nhau thơm nức). Cũng chính nơi đây, vào tháng 2.1947, trong lần vào Thanh Hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về dâng hương, tưởng nhớ các vị tiền nhân của vương triều Nguyễn.
|
Ngọc Minh
Phục hồi lăng miếu Triệu Tường
Di tích lăng miếu Triệu Tường được vua Gia Long cho xây dựng năm 1803, tại thôn Gia Miêu, xã Hà Long, H.Hà Trung - nơi phát tích của 9 chúa, 13 vua triều Nguyễn. Đây là công trình kiến trúc tưởng niệm - miếu thờ của vương triều Nguyễn, được xây dựng với quy mô lớn, có giá trị đặc biệt về kiến trúc và nghệ thuật trang trí điêu khắc. Nhiều nhà sử học coi khu di tích này là kinh thành Huế thu nhỏ. Di tích, gồm nhiều kiến trúc bố trí trong một khu vực có chu vi 182 trượng (tương đương 50.000 m2), bao quanh có hồ nước và cầu gạch bắc qua. Vòng ngoài có hai lớp lũy bao bọc, được ví như một tòa thành. Không gian bên trong được chia làm 3 khu vực: Khu vực chính ở giữa xây Nguyên miếu thờ Nguyễn Kim và Nguyễn Hoàng. Khu vực phía đông dựng miếu thờ Trừng quốc công, khu vực phía tây dành làm nơi trú ngụ của các quan và gia đình hộ lăng và trại lính canh lăng...
Đình Gia Miêu ở xã Hà Long (thuộc quần thể di tích lăng miếu Triệu Tường) - Ảnh: Ngọc Minh |
Trải qua những biến động của lịch sử, lăng miếu Triệu Tường đã bị san phẳng, nay chỉ còn dấu tích nền móng. Tuy nhiên, qua các cuộc khai quật thám sát khảo cổ đã cho cái nhìn tổng thể về quy mô, loại hình, kiểu kiến trúc cũng như diện tích xây dựng của khu di tích. Điều đó giúp công tác tôn tạo, phục dựng lại di tích có đầy đủ cơ sở khoa học trả lại cho di tích có được hình hài vốn có của nó.
Ngọc Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét