Thứ Năm, 21 tháng 5, 2015

Huê Nghiêm Cổ Tự

Huê Nghiêm cổ tự tọa lạc trên đường Đặng Văn Bi (Quận Thủ Đức) là ngôi chùa cổ xưa nhất ở Tp. Hồ Chí Minh. Chùa là bằng chứng về trình độ kiến trúc và phong tục tập quán của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền văn minh trên vùng đất hoang sơ cách đây gần 400 năm.

Huê Nghiêm cổ tự được thành lập từ năm 1721 do Tổ Thiệt Thuỵ - Tánh Tường (1681-1757) xây dựng. Tên gọi chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Huê Nghiêm Cổ Tự ban đầu chỉ là một ngôi chùa nhỏ xây cất trên vùng đất thấp, cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100m. Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên - pháp danh Liễu Đạo đã hiến đất để xây lại ngôi chùa rộng rãi khang trang ở vị trí như hiện nay.

Trải qua gần 400 năm lịch sử, Huê Nghiêm cổ tự là một di tích Phật giáo quan trọng, là nơi dừng chân, sống và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm Phật pháp, có đạo hạnh như: Thiền sư Tế Giác - Quảng Châu tức Tiên Giác - Hải Tịnh, Thiền sư Đạt Lý - Huệ Lưu, Hòa thượng Thích Từ Văn, Hòa thượng Thích Trí Đức, Hòa thượng Thích Trí Quảng…

Thiền sư Tế Giác - Quảng Châu được xem là vị Tổ quan trọng nhất ở miền Nam vào thế kỷ 19. Năm 1825, vua Minh Mạng (1791-1841) sắc phong chức Tăng cang cho ngài và bổ nhiệm trụ trì chùa Thiên Mụ, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Đến đời Thiệu Trị (1807-1847), ngài được cử làm trụ trì chùa Giác Hoàng. Ngài đã giáo dưỡng, đào tạo nhiều nhân tài cho Phật giáo và trở thành Tổ sư của cả ba tông: Lâm Tế Chánh Tông, Lâm Tế Gia Phổ và Tế Thượng Chánh Tông.



Trải qua gần 400 năm lịch sử, Huê Nghiêm Cổ Tự hiện là một di tích Phật giáo quan trọng, nơi dừng chân,
sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm.



Tháp cổ ở Huê Nghiêm cổ tự. 


Kiến trúc mô tả hình hoa sen trên những ngôi tháp ở Huê Nghiêm cổ tự.


Các pho tượng tái hiện hình ảnh Đức Phật Thích Ca hành đạo bên gốc cây Bồ đề với nhiều cám dỗ.


Tháp thờ tự Bồ tát Quan Thế Âm.


Nơi để tro cốt của những người đã khuất.


Mái xây theo kiến trúc cổ truyền.


Bài trí tôn nghiêm ở Chánh điện.


Thỉnh chuông chùa tại Huê Nghiêm cổ tự.


Không gian Huê Nghiêm cổ tự trở nên thanh tịnh với khuôn viên chùa có nhiều cây xanh, toả bóng mát.
hue-nghiem-co-tu3

Là ngôi chùa có cảnh trí đẹp, đến nay, Huê Nghiêm cổ tự đã qua nhiều lần trùng tu, trong đó lần trùng kiến lớn nhất vào cuối thế kỷ 19 do Thiền sư Đạt Lý - Huệ Lưu tổ chức. Ngày nay, mặt tiền chùa mang dáng vẻ kiến trúc hiện đại nhưng các gian phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền. Mái của gian mặt tiền có cấu trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần về phía trên. Mái lợp bằng ngói ống màu đỏ, đường viền mái ngói màu xanh. Riêng các đường gờ mái chạy dài xuống cuối đầu đăng đều trang trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng, giữa là hình bánh xe luân pháp, đặt trên hoa sen. Không gian Huê Nghiêm cổ tự càng trở nên thanh tịnh khi khuôn viên chùa có nhiều cây xanh, toả bóng mát bên 9 ngôi tháp cổ với nhiều kiểu dáng khác nhau như những cánh sen vươn lên.

Bên trong Huê Nghiêm cổ tự, trên những hàng cột gỗ có khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán màu đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ “long ẩn vân” để trang trí. Ở chánh điện, không gian càng trở nên tôn nghiêm nhờ cách bài trí: Chính giữa tôn trí tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí); bàn thờ kế tiếp thờ Thích Ca Tam Tôn (đức Phật Thích Ca, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền); trước có tượng Thích Ca Đản sanh và bảy vị Phật Dược Sư; bàn thờ hai bên thờ Bồ tát Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn và Bồ tát Di Lặc. Sau điện Phật, có bàn thờ linh vị chư Tổ và bàn thờ bà Nguyễn Thị Hiên (1763-1821) pháp danh Liễu Đạo cùng chư vị Phật tử quá cố.

Vốn là ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Tp. Hồ Chí Minh, Huê Nghiêm cổ tự thường xuyên đón tiếp người dân và du khách trong nước, nước ngoài đến tham quan, chiêm bái. Cứ vào lễ húy kỵ Tổ khai sơn  (6/10 âm lịch) và húy kỵ Tổ Huệ Lưu (ngày 12 tháng Giêng âm lịch) hàng năm, hàng nghìn lượt tăng ni, Phật tử ở khắp nơi lại về đây thăm viếng, lễ chùa cầu mong những điều tốt lành.../.


Bài: Nguyễn Vũ Thành Đạt - Ảnh: Đặng Kim Phương

Huê Nghiêm cổ tự

 
Chùa cổ trên đất Sài Gòn hiện nay chỉ còn trên đầu ngón tay. Người lớn tuổi đều biết chùa Giác Lâm, Phụng Sơn Tự hay Huê Nghiêm cổ tự. Trong đó chùa Huê Nghiêm ở thị trấn Thủ Đức là ngôi chùa cổ lâu nhất vùng đất Gia Định khi xưa. Ngôi chùa này do tổ Thiệt Thoại (Tánh Tường) tạo lập từ năm 1721 trên một mảnh đất thấp. Tên gọi Huê Nghiêm nguyên lấy từ tựa của bộ kinh Hoa Nghiêm mà thành. Về sau, Phật tử Nguyễn Thị Hiên (1763-1821) pháp danh Liễu Đạo, tự Thành Tâm, đã hiến đất để xây lại ngôi chùahue-nghiem-co-tu3.
Chùa Huê Nghiêm tại thị trấn Thủ Đức – Ảnh: Internet
Người bạn lớn tuổi trước đây từng sống ở làng Linh Chiểu, Thủ Ðức của tôi rất rành về ngôi chùa này, hơn nữa ông từng là Phật tử tại Huê Nghiêm cổ tự nhiều năm trước khi xuất cảnh ra nước ngoài định cư. Khi nghe nhắc đến Huê Nghiêm, ông bùi ngùi thốt lên: “Chùa xưa nay còn đâu!”. Còn chăng là những tháp cổ mộ sau khuôn viên chùa. Ngày xưa ông vẫn thường làm công quả dọn dẹp cỏ dại, chăm sóc cảnh quan khu mộ tháp. Ra nước ngoài, ông vẫn thường liên lạc với nhiều đạo hữu cùng thời ông trước 1975, ông biết nhiều câu chuyện chung quanh ngôi chùa cổ nghe như huyền thoại.
Người hiến đất cất chùa là bà Nguyễn Thị Hiên, sau khi chết đầu thai làm công chúa triều nhà Thanh (Trung Quốc). Truyền thuyết kể rằng: Năm 1821, Hoàng hậu nhà Thanh sanh một công chúa, trên lòng bàn tay công chúa nổi một dòng chữ son đỏ: “Nguyễn Thị Hiên, Linh Chiểu Ðông thôn, Gia Ðịnh, Ðại Nam”. Trong khi ở xứ trời Nam, khi bà Nguyễn Thị Hiên vào năm 1821 trước khi lâm chung, bà nhờ viết trên lòng bàn tay một câu bằng son đỏ “Nguyễn Thị Hiên, làng Linh Chiểu Ðông, Gia Ðịnh, Chùa Huê Nghiêm, An Nam”. Chính vì vậy, vua nhà Thanh đã sai sứ sang xứ ta để truy tìm tông tích. Tìm đến chùa Huê Nghiêm, xác định rõ lai lịch bà Nguyễn Thị Hiên, sứ giả đã kể lại điều hiển linh kỳ diệu đó, và dâng cúng cho chùa một pho tượng Quan Âm bằng đồng. Sứ nhà Thanh đã xin trùng tu lại ngôi chùa và xây cất ngôi mộ bà Nguyễn Thị Hiên trong khuôn viên Chùa Huê Nghiêm của dòng Lâm Tế Chánh Tông.
hue-nghiem-co-tu2Chùa Huê Nghiêm lúc chưa trùng tu – Ảnh: Manhhaiflicks
Chuyện kỳ lạ có thể do dân gian thêu dệt để đề cao sự hiển linh của chùa xưa cũng như một vài câu chuyện khác về các vị tổ khai sáng cửa thiền. Chùa Huê Nghiêm là nơi phát xuất nhiều vị cao tăng của Phật giáo miền Nam, như Thiền sư Tế Giác – Quảng Châu tức Tiên Giác – Hải Tịnh. Năm 1825, vua Minh Mạng sắc phong chức Tăng cang cho Ngài và cử làm trụ trì chùa Thiên Mụ (Huế). Ðến đời vua Thiệu Trị, Ngài được cử làm trụ trì chùa Giác Hoàng. Ngài đã giáo dưỡng, đào tạo nhiều nhân tài cho Phật giáo. Ngài đã trở thành Tổ sư của cả ba tông: Lâm Tế Chánh Tông, Lâm Tế Gia Phổ và Tế Thượng Chánh Tông.
Thiền sư Ðạt Lý – Huệ Lưu, Hòa thượng Thích Từ Văn, Hòa thượng Thích Trí Ðức, Hòa thượng Thích Trí Quảng… Thiền sư Tế Giác – Quảng Châu được xem là vị Tổ quan trọng nhất ở miền Nam vào thế kỷ XIX. Những thiền sư này là hàng hậu học nối tiếp dòng Lâm Tế Chánh Tông của Tổ Tế Giác. Tổ Ðạt Lý – Huệ Lưu. Trong thời gian tu hành Ngài vân du khắp nơi, Ngài đã lưu lại cho người dân miền Lục tỉnh nhiều bài thơ, bài vè, bài sám đầy ý vị, mãi đến hôm nay vẫn còn lưu truyền trong dân gian miền Nam (Sám Huệ Lưu, Ông Vãi bán khoai). Trên đường hành đạo, Ngài đã góp phần giáo hóa dân chúng bằng lối thơ mộc mạc.
Thiền sư Huệ Lưu có chí cầu học và có tâm tu hành nên sớm thông đạt Kinh, Luật và giỏi chữ Nho. Năm Kỷ Sửu (1889), sau khi Thiền sư Liễu Xuân – Minh Chí trụ trì chùa Huê Nghiêm viên tịch, Ngài được cử về kế thế trụ trì, khi ấy Ngài được 32 tuổi. Trong thời gian này, Ngài cũng góp phần sao lục và khắc bản cuốn “Trường hàng luật nghi”, cũng gọi là “Trưởng hạnh Luật nghi”, được Thiền sư Hoằng Ân chú giải, in năm Giáp Ngọ (1894). Quyển Tỳ Ni diễn Nôm có ghi: “Giác Viên lan nhã thiền hòa, Hoằng Ân tỉnh nghĩa, Hoa Nghiêm thiền viện, Tỳ kheo Huệ Lưu sao lục”.
hue-nghiem-co-tuDi ảnh Tổ Huệ Lưu thờ phụng trong chùa – Ảnh: Giacngo.online
Noi theo bước chân hoằng hóa của Tôn sư Liễu Khiêm – Hoằng Ân, năm 1895, Thiền sư Huệ Lưu phát nguyện ba năm vân du hoằng hóa Phật Pháp tại miền Lục tỉnh Nam kỳ (vùng đất Thất Sơn, Châu Ðốc, An Giang là nơi Ngài thường lui tới), sống với tư tưởng siêu thoát của đạo Phật, đúng với câu thơ: “Túy thưởng yên hà thân ngoại cảnh / Lộng thành sanh diệt vọng trung chân (Bạn với khói mây thân ngoại cảnh / Ðùa cùng sanh diệt vọng trong chân).” Ðầu năm Ðinh Dậu 1897 khi về Huê Nghiêm, Thiền sư Huệ Lưu luôn đặt mối quan hệ thân thiết với cộng đồng làng xã, chùa còn giữ bài thơ của Tổ Huệ Lưu gửi làng Linh Chiểu Ðông (Gia Ðịnh) năm 1897. Bài thơ có đoạn: Kính thăm hương chức hai chữ miên trường / Kể từ tôi cư ngụ bổn hương / Tính đã có chín năm đủ vậy / Thấy trong làng những ai cùng nấy / Trên thuận hòa, dưới cũng thuận hòa … ).
Ngài đem kiến thức Phật học của mình mà tùy duyên hóa độ nhơn sanh, hòa mình đồng sự với mọi hạng người, mọi tầng lớp nhân dân. Cuối năm Ðinh Dậu (1897), Ngài phát nguyện nhập thất tu thiền. Ðến giờ Tý, ngày 12 tháng Giêng năm Mậu Tuất (1898), Ngài phát nguyện thiêu thân cúng dường Phật Tổ. Ðêm ấy ánh hào quang rực chói, khiến thầy dòng quản lý Tiểu chủng viện Thủ Ðức bấy giờ là cha cố người Pháp lấy làm lạ báo về cho quan Chánh biện (chủ tỉnh) Gia Ðịnh sự việc qua đời kỳ lạ của Thiền sư Huệ Lưu.
Thiền sư Huệ Lưu có công thực hiện lần trùng tu chùa sớm nhất. Bài vị trên bàn thờ tổ ghi rằng: “Trùng tu Huê Nghiêm tự, Lâm Tế Chánh tông, tam thập bát thế húy Ðại Lý, thượng Huê hạ Lưu Hoà thượng xà dy giác linh miệu toạ”. Tiếc rằng, Thiền sư Huệ Lưu về cõi Niết Bàn không phải do tuổi già hay bệnh tật mà tự châm lửa tự thiêu vào năm Mậu Tuất 1898. Theo những câu chuyện lưu truyền, nguyên do tự thiêu là do không muốn bị quấy nhiễu bởi cám dỗ thường tình. Cám dỗ đó là gì?
hue-nghiem-co-tu1
Khu mộ tháp còn lưu giữ nét xưa – Ảnh: Internet
Một xác thực trên báo Giác Ngộ ấn bản năm 1999 ghi lại: “Có một mỹ nữ con ruột quan Tri huyện, thương yêu Hòa thượng tột cùng, nên đã không ngừng tới chùa dụ dỗ, cưỡng ép Hòa thượng từ bỏ cửa thiền để làm vị hôn phu của cô. Hòa thượng Huệ Lưu vì đã Ðạt Lý chơn tu hơn người nên đã phần thân (xà dy – tự thiêu) về cõi Phật, giữ trọn đạo hạnh, khiến tăng chúng kính phục, tôn làm Tổ”.
Chuyện Thiền sư Huệ Lưu xà dy để giải thoát tình đời cám dỗ nhưng suy cho cùng đó là cách ra đi êm ấm để tránh một chuyện cưỡng ép hôn nhân bắt Ngài hoàn tục. Chuyện hư thực khó ai biết được hay bên trong còn nhiều uẩn khúc. Những gì sau khi chết Tổ Huệ Lưu để lại cho nhân thế là tấm lòng đức độ, cố gắng giữ gìn phát huy đạo Phật.
Người bạn già của tôi chỉ nghe lại chuyện ngày xưa chứ thời của ông, ngôi chùa đã được trùng tu lần thứ hai, thứ ba trong thập niên 1960 do Tổ Thiện Bửu chủ trì Chùa Huê Nghiêm thực hiện. Thời gian ấy, chùa còn lưu lại nét cổ kính rêu phong nhưng bên ngoài đã có nhiều dấu hiệu xuống cấp, cần thiết phải trùng tu. Việc trùng tu toàn bộ cấu trúc mặt tiền và dựng thêm các bảo tháp thờ Phật lộ thiên làm tiếc nuối những người hoài cổ. Tuy nhiên, kết cấu khung gỗ bên trong chùa vẫn còn cứng cáp và được giữ nguyên. Riêng khu mộ tháp là một trong những nơi còn giữ được vẻ trầm tư cổ kính trong khuôn viên Huê Nghiêm cổ tự với cảnh vườn nhiều cây cao bóng mát và 9 ngôi tháp cổ. Những ngôi tháp này được xây cất nhiều kiểu khác nhau.
Chùa Huê Nghiêm hồi xưa còn có một mảnh đất rộng hơn 2 hécta tại Bình Khánh, Thủ Ðức (nay là quận 2), phần đất này được mua từ năm 1899 sau khi Tổ Huệ Lưu xà dy. Phần đất này dùng để sản xuất lúa gạo cho chùa Huê Nghiêm. Sau năm 1975, Hoà thượng Thích Trí Quảng cho dựng am và sau này xây thành Chùa Huê Nghiêm thứ hai rất to lớn để Tăng chúng và Phật tử có chỗ nghỉ ngơi tu học.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét