Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2016

Chiếc vạc đồng khổng lồ gần 300 tuổi ở xứ Thanh

Chiếc vạc nặng khoảng một tấn, cao 79,8 cm, đường kính miệng 134,4 cm, bên trong có thể chứa cùng lúc 6-7 người.
Vạc đồng Cẩm Thủy là một trong 8 bảo vật quốc gia có xuất xứ từ Thanh Hóa. Hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia ngày 30/12/2013 và đang được bảo quản tại Bảo tàng tổng hợp tỉnh Thanh Hóa. 
Vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20, trong quá trình đào đắp một công trình tại khu vực ngã ba Đình Hương (phường Hàm Rồng, TP Thanh Hóa), Ban chỉ huy quân sự thành phố đã phát hiện chiếc vạc khổng lồ không rõ niên đại và còn khá nguyên vẹn. Hiện vật này sau đó được đưa về bảo quản tại trụ sở Ban chỉ huy quân sự TP Thanh Hóa hơn 20 năm, mãi đến năm 2002 mới bàn giao cho Bảo tàng Thanh Hóa quản lý.
 
Chiếc vạc nặng khoảng một tấn, cao 79,8 cm, đường kính miệng 134,4 cm, đường kính đáy 115 cm. Miệng vạc hơi loe, thành miệng vát, đáy lồi. Bên trong có thể chứa cùng lúc 6-7 người. “Do kích cỡ chiếc vạc quá lớn nên bảo tàng cũng chưa đem cân lần nào, chỉ ước chừng nặng một tấn”, bà Bùi Thị Luận, Trưởng Phòng kiểm kê bảo quản (Bảo tàng Thanh Hóa) cho hay. Cũng do ngoại cỡ nên hiện vật chưa được trưng bày mà đang cất giữ trong kho. Mỗi lần di chuyển chiếc vạc đều phải dùng máy cẩu mới nhấc nổi.
 
Nổi bật trên miệng vạc là 6 chiếc quai hình chữ U trang trí kiểu vặn thừng, nằm cách đều nhau. Những chiếc quai rất chắc chắn, to như bắp tay, có thể luồn cả cây luồng để khiêng hoặc khi cần di chuyển vật dụng này.
 
Bên trong thành miệng tạo gờ; giữa tai quai trang trí các chấm tròn nổi tạo thành bông hoa 5 cánh (nhụy hoa là một chấm tròn to, cánh hoa là 5 chấm tròn nhỏ), được cho là hình bông hoa chanh.
 
Giữa các quai được thợ đúc trang trí hoa lá hình dây (gồm 4 cụm).
 
Trên miệng vạc còn có hai dòng minh văn chữ Hán đối xứng nhau, mỗi dòng gồm 11 chữ, nét nổi đậm, rõ ràng. Hai dòng chữ Hán trên miệng vạc giúp xác định niên đại và chủ nhân của chiếc vạc quý. Cụ thể, vạc được quan khâm sai huyện Cẩm Thủy Phạm Ngô Cầu cho khởi đúc ngày 28/11/1752, thời Lê Trung Hưng.
 
Dù có niên đại gần 300 năm nhưng chiếc vạc còn khá nguyên vẹn, chỉ có một vết lõm trên thân được cho là vết đạn trong chiến tranh.
 
Theo sử sách thì "vạc tượng trưng cho cơ nghiệp thiên tử", do đó việc một quan khâm sai huyện cho đúc chiếc vạc lớn gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, qua các ghi chép về nhân vật Phạm Ngô Cầu cho thấy, ông là người có tiếng nói rất quan trọng trong triều đình Lê - Trịnh bấy giờ. Vì vậy, việc ông cho đúc vạc lớn nhiều khả năng nhằm thể hiện uy lực cá nhân.
 

Vạc đồng Cẩm Thủy vốn là biểu tượng quyền lực của vua chúa thời phong kiến nhưng lại được một viên quan khâm sai huyện cho đúc gần 300 năm trước.

Vạc đồng Cẩm Thủy là một trong 8 bảo vật quốc gia có xuất xứ Thanh Hóa. Hiện vậy được công nhận bảo vật quốc gia ngày 30/12/2013 và đang được bảo quản tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa. Các nhà nghiên cứu nhận định, vạc đồng Cẩm Thủy có giá trị đặc biệt gắn liền với lịch sử thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 16-18), là minh chứng sinh động cho kỹ nghệ đúc đồng đạt đến trình độ hoàn hảo từ nhiều thế kỷ trước ở Việt Nam.
chiec-vac-dong-khong-lo-gan-300-tuoi-o-xu-thanh
Vạc Cẩm Thủy nặng khoảng một tấn. Ảnh: Lê Hoàng.
Chiếc vạc đồng độc nhất Việt Nam
Khoảng đầu thập kỷ 80 thế kỷ 20, trong quá trình đào đắp một công trình tại khu vực ngã ba Đình Hương (phường Hàm Rồng, TP Thanh Hóa), Ban Chỉ huy quân sự thành phố phát hiện chiếc vạc khổng lồ không rõ niên đại và còn khá nguyên vẹn. Hiện vật sau đó được đưa về bảo quản tại trụ sở Ban chỉ huy quân sự TP Thanh Hóa hơn 20 năm, mãi đến đầu tháng 8/2002 mới bàn giao cho Bảo tàng Thanh Hóa quản lý.
Vạc làm bằng đồng, nặng khoảng một tấn, cao 79,8 cm, đường kính miệng 134,4 cm, đường kính đáy 115 cm. Trên miệng gắn 6 quai hình chữ U trang trí kiểu vặn thừng, nằm cách đều nhau. Bên trong thành miệng vạc tạo gờ, giữa tai quai trang trí các chấm tròn nổi tạo thành bông hoa 5 cánh (nhụy hoa là một chấm tròn to, cánh hoa là 5 chấm tròn nhỏ) tương tự hình bông hoa chanh. Giữa các quai trang trí hoa lá hình dây (gồm 4 cụm). Ngoài ra, trên miệng vạc còn có hai dòng chữ Hán đối xứng nhau, mỗi dòng gồm 11 chữ, nét chữ nổi đậm, rõ ràng.
Bên ngoài sát dưới thành miệng vạc trang trí một băng hoa văn hình hoa chanh xen kẽ vân mây và được giới hạn bởi hai đường gờ nổi chạy quanh. Ngăn cách phần thân với miệng và đáy vạc là đường gờ nổi đậm hình sống trâu, hai bên có hai đường gờ nổi nhỏ chạy quanh, thân vạc trang trí các đường gờ nổi tạo thành kiểu bổ ô dọc (gồm 6 ô). Sát đáy vạc có một đường gờ nổi chạy quanh, một bên sát đường gờ (đối diện phần quai xuống đáy) có hình một lỗ lõm tròn. Toàn thân vạc được phủ một lớp patin màu xanh rỉ đồng.
chiec-vac-dong-khong-lo-gan-300-tuoi-o-xu-thanh-1
Miệng vạc hơi loe, phía trên có gắn 6 quai kiểu vặn thừng khá chắc chắn. Ảnh: Lê Hoàng.
Hai dòng chữ Hán trên miệng vạc cho biết năm chế tác và chủ nhân của chiếc vạc quý: “Cẩm Thủy huyện Khâm sai chính thống lĩnh Quận công tạo. Nhâm Thân niên, thập nhất nguyệt, nhị thập bát nhật chú”. Các nhà nghiên cứu xác định chiếc vạc lớn do Tạo Quận công, tức quan khâm sai huyện Cẩm Thủy Phạm Ngô Cầu sai đúc ngày 28/11 (âm lịch) năm 1752, thời Lê Trung Hưng.
Bà Bùi Thị Luận, Trưởng Phòng kiểm kê bảo quản (Bảo tàng Thanh Hóa) cho hay, vạc đồng Cẩm Thủy là hiện vật gốc độc bản, mang tính địa phương rõ rệt và được đánh giá là vạc đồng nguyên vẹn lớn nhất Việt Nam cho đến nay. “Do kích cỡ quá lớn nên bảo tàng chưa đem cân vạc lần nào, chỉ ước chừng hơn một tấn”, bà Luận nói và cho hay cũng do ngoại cỡ nên hiện vật chưa được trưng bày mà cất giữ trong kho. Mỗi lần di chuyển vạc đều phải dùng máy cẩu mới nhấc nổi.
Tranh cãi về mục đích sử dụng vạc khổng lồ
Theo bà Nguyễn Thanh Hiền, Phó giám đốc Bảo tàng Thanh Hóa, quá trình khảo cứu vạc đồng Cẩm Thủy, các nhà nghiên cứu đã đặt ra nhiều giả thuyết và tìm cách giải đáp nhưng cũng chưa có lý giải nào có tính thuyết phục cao.  
Theo sách Lê Quý kỷ sự (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1974), “vạc tượng trưng cho cơ nghiệp thiên tử”, chỉ có vua chúa mới cho đúc và sở hữu những chiếc vạc lớn nhằm thể hiện quyền uy gia tộc. Hiện Việt Nam chưa địa phương nào có chiếc vạc đồng lại do một quan khâm sai huyện cho khởi đúc, ngoại trừ 15 chiếc vạc đang trưng bày ở kinh thành Huế do vua chúa nhà Nguyễn sai đúc. Trong số đó có 11 chiếc do hai chúa Nguyễn Phúc Chu (1631-1635), Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) sai đúc và 4 chiếc do vua Minh Mạng (1820-1840) cho đúc.
Câu hỏi đặt ra là vì sao một vị quan khâm sai lại cho đúc chiếc vạc lớn vốn được xem là biểu tượng uy quyền của các bậc đế vương. Phạm Ngô Cầu cho làm ra chiếc vạc lớn này phải chăng nhằm lưu lại sự nghiệp hiển vinh của mình hay còn có mưu đồ gì ẩn giấu phía sau là những câu hỏi còn bỏ ngỏ.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Nhà xuất bản Giáo dục, 1998) cho biết, trong thời gian giữ chức trấn thủ phủ Thuận Hóa, Phạm Ngô Cầu luôn quan tâm đến việc học hành của dân chúng. Năm 1777, ông đề nghị chúa Trịnh Sâm cho khôi phục việc học hành ở Thuận Hóa vốn bị gián đoạn do chiến tranh liên miên nhiều năm. Chúa Trịnh Sâm sau đó chấp thuận, cho mở trường thi hương để thu hút hiền tài cho đất nước.
chiec-vac-dong-khong-lo-gan-300-tuoi-o-xu-thanh-2
Hai dòng minh văn chữ Hán giúp xác định niên đại và chủ nhân chiếc vạc quý. Ảnh: Lê Hoàng.
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992) ghi: “Phạm Ngô Cầu là một võ tướng nhà Trịnh, được ban tước Tạo Quận công. Ông được Lê Hiến Tông và Trịnh Sâm rất tín nhiệm, thường giao cho những công vụ quan trọng. Ông có tài dùng binh, khi làm trấn thủ phủ Thuận Hóa, phải đối đầu với nghĩa quân Tây Sơn. Năm 1786 vì mắc kế phản gián của nhà Tây Sơn, ông bị chiếm mất thành, phải tự trói mình đầu hàng. Các tướng Tây Sơn giải ông về Quy Nhơn rồi xử tử hình cùng năm”.
“Không có ghi chép về thời gian Phạm Ngô Cầu làm quan khâm sai huyện Cẩm Thủy, nhưng qua những ghi chép về giai đoạn ông làm trấn thủ phủ Thuận Hóa cho thấy, ông là người có tiếng nói rất quan trọng trong triều đình bấy giờ. Vì vậy, theo các nhà sử học, việc cho đúc chiếc vạc lớn nhiều khả năng là nhằm thể hiện uy lực cá nhân”, bà Hiền nhận định.

Lê Hoàng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét