Thứ Năm, 10 tháng 2, 2011

Các vương phủ Huế

Tôi không khi nào quên được hình ảnh những bà bán hàng rong tôi được thấy ở Huế khi còn nhỏ. Áo dài hai ba lớp tươm tất, có khi một điếu Cẩm Lệ trễ trên môi, nhưng luôn luôn đi chân đất.
Có bà giải thích rằng vì đạp trên đất Đế Đô nên phải đi chân không để tỏ lòng tôn kính. Cái gì đã góp phần tạo nên cái phong cách “rất Huế”, độc đáo nhiều khi đến khó tin nổi ấy?
Mấy thập kỷ trôi qua, Huế vẫn nghèo. Các bà bán hàng rong ấy đã biến mất theo ông đồ già, nhưng niềm kiêu hãnh Huế hãy còn đó. Khi hỏi đường một bà bán thuốc lá dạo trong Nội mới đây, tôi gọi bà là “O”, vì rõ ràng bà trẻ hơn cha mẹ tôi nhiều. Bà lập tức sửa sai tôi: ”Mệ, mệ đó con”. Cái phong cách Huế lúc nào cũng còn rất đậm nét ở đây.
Cac vuong phu Hue P1
Hoàng cung và lăng tẩm thật ra chỉ là những yếu tố phụ trong việc hình thành cái phong cách Huế ấy. Các húy kỵ nghiêm ngặt nặng nề đã làm cho hoàng gia xa vời với dân chúng. Chính các phủ đệ của ông hoàng bà chúa đã tạo ra cái phong cách Huế cho dân Đế Đô, vì chúng được xây ngoài phạm vi hoàng thành, xen lẫn với phố xá làng mạc. Cư dân chung quanh ngày xưa rất hãnh diện với các vương phủ trong bản hạt của họ. Họ cung cấp mọi dịch vụ cần thiết cho phủ, và cùng lúc đó họ học hỏi phong cách sống cung đình từ người trong phủ.

Huế ngày nay vẫn là một thành phố độc đáo, vì cứ mỗi vài trăm thước ở lại thấy thấp thoáng một di tích phủ đệ lịch sử. Cho đến nay, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phần lớn vẫn do con cháu trong dòng họ quản giữ. Ngày xưa mỗi phủ đều nằm trong khuôn viên rất rộng, nhưng nay dấu tích của chúng phần nhiều bị che khuất bởi sự xây dựng, cơi nới hỗn loạn của xung quanh.

Có bốn khu vực di tích tiêu biểu gần trung tâm thành phố, nơi du khách có thể thăm viếng gọn trong một cuộc du lịch ngắn một hai ngày. Đó là các khu vực An Cựu, Vỹ Dạ (Vy Dã), Gia Hội, và Kim Long.

Theo đại lộ Lê Lợi về hướng nhà ga xe hỏa, rẽ trái trên đường Điện Biên Phủ sẽ gặp đường Phan Đình Phùng của phường An Cựu. Một số vương phủ lượn lờ dọc sông An Cựu vẫn còn tồn tại với tình trạng tương đối. Di tích với địa chỉ thấp nhất ở đây, tại số 65, là Lạc Tịnh Viên. Phủ này do Đông Các Đại Học Sĩ Hồng Khẩn, con trai Tùng Thiện Vương xây năm 1889. Phủ đã được chỉnh trang, xây cất thêm nhiều lần. Lần cuối cùng với việc xây nhà Vấn Trai năm 1910. Lạc Tịnh Viên hiện nay là một trong những điểm du lịch tư nhân được tham quan nhiều nhất ở Huế.

Tiếp theo, địa chỉ 91 ngày xưa là Phương Thôn Thảo Đường của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819-1870), con trai thứ mười của Hoàng đế Minh Mạng. Vương và bào đệ Tuy Lý Vương là hai nhà thơ nổi tiếng của Nguyễn Triều. Vua Tự Đức đã khâm phục và khen hai ông chú tài hoa này với dòng thơ nổi tiếng: “Thi đáo Tùng, Tuy bất Thịnh Đường”. Nghĩa là thơ được như của Tùng Thiện, Tuy Lý thì thơ thời Thịnh Đường không còn đáng kể. Phủ còn tương đối nguyên vẹn nhưng đã bị chữa lại hơi mới. Biệt thự số 147 (được biết đến nhiều hơn với địa chỉ cũ 79), là biệt thự của Đoan Huy Hoàng thái hậu Từ Cung. Năm 1957, sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm của miền Nam quốc hữu hóa cung An Định, nơi hoàng thái hậu cư ngụ từ năm 1945, bà phải mua căn biệt thự này để sống. Bà ở đó từ năm 1958 cho đến khi từ trần năm 1980. Trong khi chờ đợi biệt thự được sửa sang, Hoàng thái hậu đã sống tạm ở phủ Kiên Thái Vương một năm. Biệt thự số 79 Phan Đình Phùng này vẫn còn lưu giữ được phần nào nếp sống của vị Hoàng thái hậu cuối cùng của Việt Nam.

Kéo dài từ địa chỉ 167 đến 171 ngày xưa là phủ và tẩm thờ của Ngọc Lâm công chúa Nguyễn Phúc Hỷ Duyệt, trưởng nữ của Hoàng Đế Đồng Khánh. Hiện nay chỉ còn hai cái cổng ngoài cửa phủ và đền thờ còn đứng vững. Biệt thự riêng của Hoàng Tùng Đệ Vĩnh Cẩn, em họ thân tín nhất của Cựu Hoàng Bảo Đại, ở số 177, cũng chung một số phận với phủ Ngọc Lâm.

Vương phủ ở địa chỉ 179 được xây bởi Kiên Thái Vương Hồng Cai (1845-1876), con trai thứ hai mươi sáu của Hoàng Đế Thiệu Trị. Vương là thân phụ của ba Hoàng Đế Kiến Phúc (1883-1884), Hàm Nghi (1884-1885), và Đồng Khánh (1885-1888). Việc này đã được dân Huế xưa kể bằng câu vè nổi tiếng: “Một nhà sinh đặng ba vua. Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài”. Mặc dù có đến 103 bà vợ trong nội cung, vua Tự Đức (1848-1883) tuyệt tự, nhà vua phải nhận ba người cháu làm dưỡng tử. Vị thứ nhất là Hoàng Tử Ưng Chân, con trai Thoại Thái Vương Hồng Y, sau này lên ngôi với đế hiệu Dục Đức. Hai người còn lại là Ưng Đăng và Ưng Hổ, con trai Kiên Thái Vương. Hai vị này sau là các Hoàng Đế Kiến Phúc và Đồng Khánh. Trong số ba vị vua từ phủ Kiên Thái, chỉ có Hoàng Đế Đồng Khánh được ở ngôi cho đến khi qua đời, và được thờ ở Thế Miếu. Vua Kiến Phúc chỉ tại vị được tám tháng, và mất lúc mới mười lăm tuổi. Hiện vẫn còn nhiều nghi vấn về cái chết của vị hoàng đế yểu mệnh này. Người ta cho rằng vì có tỵ hiềm với Phụ Chính Nguyễn Văn Tường, Vua Kiến Phúc đã bị viên quan này đầu độc. Hoàng Đế Hàm Nghi, em trai Kiến Phúc, mới nối ngôi vua anh được một năm đã cầm đầu phong trào Cần Vương chống Pháp, nhưng thất bại. Sau một năm lẩn trốn ở Quảng Trị và Quảng Bình, nhà vua, lúc ấy mới mười lăm tuổi, bị người Pháp bắt được rồi đầy sang Algeria. Hiện nay phủ Kiên Thái Vương tương đối còn đứng vững. Cựu Hoàng Bảo Đại, chắt nội của Kiên Thái Vương, cũng được thờ ở đây.

Hàng xóm của phủ Kiên Thái Vương, không có địa chỉ rõ ràng vì tự tên nó đã trở thành địa chỉ, là cung An Định. Cung được Hoàng Tử Phụng Hóa Bửu Đảo xây làm phủ riêng năm 1902. Năm 1916 Hoàng tử Bửu Đảo lên ngôi thành Hoàng đế Khải Định. Nhà vua đã dùng tiền riêng để tân tạo phủ Phụng Hóa thành cung An Định, với phong cách tân cổ điển vào năm 1917. Từ năm 1922 An Định trở thành cung riêng của Hoàng thái tử Vĩnh Thụy, tức Hoàng đế Bảo Đại sau này. Sau khi Bảo Đại thoái vị năm 1945, thân mẫu nhà vua, Hoàng thái hậu Từ Cung, đã chuyển về sống ở cung An Định. Hiện nay các công trình kiến trúc chính của cung là lầu Khải Tường, nhà Bát Giác và cổng chính vẫn còn nguyên vẹn. Một số kiến trúc khác của cung như nhà hát Cửu Tư Đài, nhà ngang, chuồng thú, hồ nước, vườn và cổng hậu đã không còn nữa. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đang dành ra một khoản kinh phí rất lớn để phục tạo lại cung An Định cho đúng với tầm cỡ xưa.

Kế cận cung An Định, ở địa chỉ 181, là ngoại từ để thờ phượng tiên tổ của Khôn Nghi Hoàng Thái Hậu Tiên Cung (1868-1944). Tiếp sau đấy là phủ của An Hóa Công Bửu Tửng, con trai vua Đồng Khánh, ở địa chỉ 185. Cuối cùng là Nguyễn Đức Đường Môn ở địa chỉ 189, phủ cũ của Bái Ân Công Chúa Nguyễn Phúc Lương Trinh (1830-1891), con gái vua Minh Mạng. Sau này phủ Bái Ân trở thành dinh của hậu duệ Phò Mã Nguyễn Đức Huy, chồng công chúa.
Việt Báo (Theo TT&VH)

Huế vẫn còn rất nhiều bí ẩn, kỳ tích chưa được khảo cứu. Nếu phục hồi lại một cách nghiêm chỉnh, đế đô cổ này sẽ có thể sánh vai với các trung tâm du lịch nổi tiếng khác trên thế giới.

Trên đường Phan Đình Phùng, sau phủ Tùng Thiện Vương, rẽ phải theo cầu Kho Rèn vào đường Duy Tân sẽ đến Tân Lăng. Đây là tẩm thờ và lăng của ba vua: Dục Đức (1884), Thành Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-1916). Vua Dục Đức bị quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết bức tử vào tháng 10 năm 1884, sau khi tại vị vẻn vẹn có ba ngày và bị giam giữ ba tháng. Xác nhà vua được bó chiếu chôn tạm trong một hố trống thiên nhiên ở địa điểm Tân Lăng hiện nay. Sau này lăng của nhà vua được xây tại đấy với tên gọi là An Lăng. Năm 1899, con trai nhà vua là Thành Thái xây điện Long Ân, hay còn gọi là Tân Lăng, để thờ vua cha. Vua Thành Thái và con trai là hoàng đế trẻ tuổi Duy Tân sau này đều bị nhà cầm quyền Pháp đầy sang đảo Reunion ở châu Phi năm 1916 vì tinh thần chống thực dân của họ. Cựu Hoàng Thành Thái được về nước năm 1947, rồi từ trần ở Sài Gòn năm 1955. Nhà vua được an táng ở cạnh An Lăng. Cựu Hoàng Duy Tân tử nạn máy bay ở Cộng Hòa Trung Phi năm 1945. Đến năm 1987 xác nhà vua cũng được đem về cải táng trong khuôn viên của An Lăng. Hiện nay Điện Long Ân đã được trả lại chức năng cũ để làm nơi thờ ba vị hoàng đế bạc phước này.
Cac vuong phu Hue P2
Phủ thờ Kiên Thái Vương
Khu vực Thuận An Vỹ Dạ có mật độ vương phủ dinh thự to lớn nhất thời xưa. Đường Lê Lợi, sau khi qua khỏi cầu đá Vỹ Dạ sẽ chuyển sang đường Thuận An, nay là đường Nguyễn Sinh Cung. Chỉ một số nhỏ phủ điện trên tuyến đường này nay còn có thể nhận diện được. Đó là các phủ của Tuy Lý Vương Miên Trinh (1820-1897), con trai thứ mười một của Hoàng đế Minh Mạng, ở số 98 ; phủ Diên Khánh Vương Nguyễn Phúc Tấn (1799-1854), con trai thứ bảy của Gia Long, tại số 106; phủ và mộ phần của Phong Quốc Công Miên Kiền (1831-1854), con trai thứ 55 của vua Minh Mạng, ở số 220; và phủ Định Viễn Quận Vương Nguyễn Phúc Bính (1797-1854), con trai thứ sáu của vua Gia Long, ở đối diện với địa chỉ 274 Thuận An. Trong các vương phủ này chỉ có phủ Tuy Lý Vương đã được tái tạo lại gần như xưa, với tấm bình phong đẹp. Trong phủ có cả khám thờ thân mẫu của Vương là bà Tiệp Dư Lê Thị Ái, vợ Vua Minh Mạng. Phủ còn lưu giữ được gần như toàn bộ bản khắc gỗ nguyên thủy tập thơ của vị hoàng tử thi sỹ nổi tiếng này.
Gia Hội cũng là một khu vực có nhiều di tích vương phủ của Huế xưa. Đặc biệt dọc đường Chi Lăng còn nhiều đền thờ của các bang hội Hoa kiều, được xây dựng theo phong cách cung đình và vẫn còn gần như toàn vẹn. Phủ Thọ Xuân Vương Miên Định (1810-1886), con trai thứ ba của Hoàng đế Minh Mạng, ở số nhà 145. Đền của bang hội Quảng Đông ở số 155, được xây để thờ Quan Công, bà Thiên Hậu và Thái Bạch Tinh Quân, hiện nội thất đền vẫn còn nguyên vẹn. Phủ Thoại Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Y (1833-1877), con thứ tư của vua Minh Mạng, ở địa chỉ 157, cũng đã được tôn tạo lại. Phủ 169 Chi Lăng là của Hòa Thạnh Vương Miên Tuấn (1827-1907), con thứ 37 của Minh Mạng. Địa chỉ 205 là chùa Bà của bang hội Hải Nam, được xây cùng lúc với chùa Ông năm 1895 để thờ bà Thiên Hậu. Đền cũ bằng gỗ đã bị tàn phá trong trận chiến Mậu Thân 1968, được xây dựng lại năm 1978. Cạnh chùa Bà là đền của bang Triều Châu ở địa chỉ 211, thờ Quan Công và bà Thiên Hậu. Đền này bị chìm vào quần thể kiến trúc rộng lớn của đền Phúc Kiến ở địa chỉ 213 bên cạnh. Đền Phúc Kiến là nhóm đền đài hoành tráng nhất của quần thể các đền Hoa kiều ở Huế, thờ Quan Thánh, Thiên Hậu, năm vị Tinh Quân và ba Địa Tiên của Trung Quốc. Đền được xây năm 1864 dưới thời Tự Đức, với các dàn mái đồ sộ, ấn tượng.
Cũng ở Gia Hội, từ cầu Thanh Long trên đường Bạch Đằng sẽ thấy được toàn cảnh cầu Lương Y, một trong những cầu hộ thành cổ nhất ở Huế. Cầu được xây từ thời Gia Long (1802-1820), và vẫn còn được giữ nguyên vẹn với các ổ để đặt súng thần công.
 Cac vuong phu Hue P2
Tam quan điện Voi Ré
Một khu vực khác một thời nổi tiếng với nhiều vương phủ của Huế là Kim Long. Một số dinh thự ở đây vẫn còn dấu tích rất rõ. Đại lộ Trần Hưng Đạo khi qua khỏi cầu Bạch Hổ, trên đường đi về chùa Thiên Mụ, sẽ chuyển sang đường Kim Long, nay là đường Nguyễn Thúc Nguyên. Ở đây có phủ và điện thờ của Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng, phụ thân của Từ Dũ Hoàng thái hậu. Đền thờ được vua Tự Đức, cháu ngoại Đức Quốc công, cho xây năm 1849. Hiện nay nội thất của đền còn khá đầy đủ. Gần đấy là phủ của Diên Phước Công chúa Nguyễn Phúc Tĩnh Hảo (1824-1848). Công chúa là chị ruột của Tự Đức. Từ Dũ Hoàng thái hậu chỉ sinh được ba người con là bà, vua Tự Đức và một vị công chúa nữa đã từ trần lúc ba tuổi. Vua Tự Đức rất yêu quý chị mình và năm 1854 đã cho xây phủ thờ công chúa trong khuôn viên Vĩnh ấm viên, phủ cũ của bà. Thỉnh thoảng vị thi nhân vương giả này vẫn đến viếng và làm thơ tưởng nhớ chị. Ngày nay nội thất trong phủ còn khá đầy đủ, và vẫn giữ được phong thái một nơi thờ phụng của hoàng gia thời Tự Đức.

Một vài di tích cung phủ khác cũng vẫn còn được nhận ra trên tuyến đường này như phủ của Vĩnh Quốc công Nguyễn Hữu Độ, thân phụ của bà Thánh Cung Hoàng thái hậu, chính cung của vua Đồng Khánh, ở số 40; dinh của Khoái Châu Quận công Nguyễn Đức Xuyên, cha của bà Đức Tần Nguyễn Thị Huyên, và vua Thiệu Trị, ở số 42. Nổi tiếng nhất trong nhóm dinh thự này là An Hiên viên ở số nhà 46. Được xây bởi cháu nội Đức Quốc công là Phạm Đăng Khánh năm 1895, dinh đã bị đổi chủ nhiều lần và nay thuộc về dòng họ Nguyễn Đình. An Hiên viên nay vẫn còn giữ phong cách của một vườn cổ ở Huế và được nhiều du khách thăm viếng.

Đi tiếp tuyến đường này sẽ dẫn đến chùa Thiên Mụ, và sau đó là Văn Thánh Miếu với hàng bia tiến sỹ Nguyễn Triều. Nhưng bên kia sông Hương, đối diện với chùa Thiên Mụ mới là một khu vực độc đáo của Huế, đó là đấu trường Hổ Quyền và điện Voi Ré. Theo đường Bùi Thị Xuân từ nhà ga xe hỏa, rẽ trái ở chợ Long Thọ sẽ đến Hổ Quyền. Xem thú dữ giao đấu từ lâu đã là một trò tiêu khiển với cảm giác mạnh của các hoàng triều Việt Nam. Cho đến thời Gia Long, vua chúa Nguyễn vẫn tổ chức các buổi giao đấu này ở cồn Dã Viên trên sông Hương. Để bảo vệ an ninh cho người xem, năm 1837 vua Minh Mạng đã cho xây đấu trường Hổ Quyền với quy mô rộng lớn chắc chắn. Sân đấu hình tròn, đường kính 50 thước, cao 6,5 thước. Hổ Quyền có năm cổng vào cho cọp và một cổng cho voi. Phần nhiều cọp bị mang vào đây đều đã giết hại gia súc, hay có khi người, và bị xử tội voi giày. Trận đấu cuối cùng được tổ chức năm 1904 dưới sự chủ tọa của vua Thành Thái. Lần ấy con cọp đã đuổi voi chạy, gây ra cái chết của viên quản tượng. Không trận đấu nào được tổ chức ở Hổ Quyền nữa từ đấy. Ngoại trừ Ngự Đài của hoàng đế đã bị phá hủy, Hổ Quyền vẫn còn gần như nguyên vẹn.

Cách Hổ Quyền khoảng 150 thước là đền Long Châu, hay còn gọi là điện Voi Ré. Đền được xây thời Gia Long để thờ 15 vị thần hộ mệnh cho đoàn voi chiến của hoàng triều. Trong đền cũng thờ một số voi có công, tử trận, được phong tước. Có một con voi thời Minh Mạng bị thương ở chiến trường, chạy được về đây kêu rống lên một tiếng rồi chết gục trước đền. Voi được an táng cùng các “Đề đốc Voi” khác, và thờ trong đền. Vì vậy đền mới có thêm cái tên Voi Ré. Hiện nay khu nghĩa địa voi chỉ còn hai mộ voi Ré và voi Ô Long. Điện Long Châu tuy bị xâm phạm, mất mát nhiều, nhưng vẫn còn khá đẹp. Trước đền có một hồ sen rợp bóng cây rất lãng mạn.

Huế vẫn còn rất nhiều bí ẩn, kỳ tích chưa được khảo cứu. Nếu phục hồi lại một cách nghiêm chỉnh, đế đô cổ này sẽ có thể sánh vai với các trung tâm du lịch nổi tiếng khác trên thế giới. Biết đâu các bà bán hàng rong, mặc áo dài ba lớp đi chân đất, lại không phải là một niềm kiêu hãnh mới của Huế sau này?
Việt Báo (Theo TT&VH)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét