Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

Đình Thông Tây Hội

Đình Thông Tây Hội, trước năm 1944 có tên đình làng Hạnh Thông Tây là một ngôi đình cổ ở Gò Vấp. Đình được xây dựng vào khoảng năm 1679[1], ngày nay được biết tới như là ngôi đình cổ nhất của vùng đất Gia Định xưa và của cả miền đất phương Nam còn tồn tại[1][2]. Đình Thông Tây Hội là nguồn tư liệu phong phú về cư dân vùng Gò Vấp, một vùng đất ra đời tương đối sớm đối với Sài Gòn - Gia Định.

Cổng đình Thông Tây Hội ngày nay
Với giá trị kiến trúc nghệ thuật, lịch sử, xã hội, đình được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật, văn hóa lịch sử cấp quốc 






Nguồn gốc

Tên Thông Tây Hội là do ghép từ hai làng Hạnh Thông Tây và An Hội. Khi hai làng sát nhập (năm 1944) thì đình làng Hạnh Thông Tây được chọn làm đình chung và từ đó được đổi tên thành đình Thông Tây Hội. Làng Hạnh Thông Tây được tách ra từ làng Hạnh Thông (Hạnh Thông là một trong những làng ra đời từ rất sớm - 1698).[4]
Trong "Gia Định thành thông chí" của Trịnh Hoài Đức có ghi: Hạnh Thông Thôn - Hạnh Thông Tây thôn - An Hội Thôn - thuộc tổng Bình Trị, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình. Xã Hạnh Thông Tây có thể ra đời rất sớm cùng với sự ra đời và tồn tại của làng xã. Theo các cụ cao niên tại địa phương cho biết: ngôi đình đầu tiên của làng Hạnh Thông Tây được dựng lên từ khi tách làng, được làm bằng gỗ lợp lá, nằm ở vị trí khác, cách ngôi đình hiện hữu 800m về phía Nam. Ngôi đình thứ hai được cất bằng gỗ lợp ngói, nhỏ và đơn giản nằm tại vị trí ngôi đình hiện hữu. Đất dựng đình do một nhà hào phú địa phương tên Huỳnh Văn Thu hiến cúng. Ngôi đình hiện nay được trùng tu trên mặt bằng ngôi đình thứ hai.[4]
Đình Thông Tây Hội nằm trên 1 con đường nay là đường Thống Nhất thuộc phường 11, quận Gò Vấp. Đường này ngày xưa là đường làng không tên, là trục chính nối hai làng Hạnh Thông Tâyvà An Nhơn Xã. Thời Việt Nam Cộng Hòa, đường có tên là Minh Mạng, sau 1975 đổi tên thành đường Thống Nhất. Đến năm 1982 lấy tên đường Nguyễn Văn Lượng[5], nay thì đã đổi lại thành đường Thống Nhất.

Kiến trúc


Lối vào chính điện
Đình Thông Tây Hội là ngôi đình có cấu trúc thuộc dạng đình cổ ở miền Nam thế kỷ 19. Đình hiện vẫn gìn giữ được gần như nguyên vẹn cấu trúc và vật liệu xây dựng của ngôi đình cổ. [4]
Toàn bộ khu đình tọa lạc trên một khu đất rộng 5.188m2. Do một phần đất đình được dùng xây trường học, một phần do dân lấn chiếm để ở nên nay chỉ còn khoảng 1.500m2. Đình quay về hướng Đông. Cổng đình xây theo kiểu tam quan. Sân Đình rộng, có một số cây cao khoảng 10m. Mặt bằng kiến trúc của đình tạo thành hai trục song song với nhau: một trục dài (trục chính) gồm võ ca, chánh điện; một trục ngắn (trục phụ): nhà hội sở. Kiểu mặt bằng kiến trúc này rất phổ biến đối với công trình kiến trúc tôn giáo ở miền Nam thế kỷ thứ 18-19.
Võ ca có kích thước: ngang 14m, sâu 17,5m, cao 4m là nơi xây chầu, hát bội gồm 7 nếp nhà và 52 cột gỗ, không có tường bao xung quanh.
Chánh điện gồm: 2 nếp nhà ghép trùng nhau theo kiểu "trùng thiềm điệp ốc". Mái của hai nếp nhà cạnh sát nhau. Tất cả có 48 cột, chia thành 8 dãy cột, mỗi dãy có 6 cột. Bốn cột giữa cao nhất là 4,5m, có đường kính là 30cm (thường được gọi là "tứ tượng") là nơi quan trọng nhất, linh thiêng nhất - nơi đặt bàn thờ thần. Các chân cột ở chánh điện được có khắc hình lăng trụ thắt ở giữa. Trên nóc chánh điện có tượng lưỡng long tranh châu bằng gốm men xanh. Quanh chánh điện có tường gạch.
Nhà hội sở: là văn phòng ban trị sự, nơi tiếp khách và chuẩn bị tế lễ, có kích thước: ngang 12m, dài 19m, cao 4,2m; có 56 cột, chân cột kê đá xanh, có 3 nếp nhà "trùng thiềm điệp ốc"; có vách ván ngăn phòng làm việc với nhà kho.
Toàn bộ ngôi đình lợp ngói âm dương, bộ vì kèo chịu lực bằng gỗ, nền lót gạch tàu (30cm x 30cm).
Các thành phần kiến trúc phụ gồm có: bia ông hổ, bàn thờ thần Nông, miếu Bà Chúa Xứ.

Nhà hội sở
Trang trí của đình Thông Tây Hội, phần đặc sắc nhất tập trung tại chánh điện. Ở đây các đầu kèo, trính đều được chạm khắc đầu rồng và cành mai. Có 3 bao lam: bao lam ở giữa chạm theo đề tài lân - li - qui - phụng, hai bao lam hai bên chạm theo đề tài mẫu đơn - trĩ. Tác phẩm chạm khắc đặc sắc nhất là trang thờ thần, được chạm khắc tinh xảo theo đề tài lưỡng long triều nguyệt và lân - li - qui - phụng. Điều đáng chú ý là các đồ thờ cúng ở đây vẫn giữ nguyên được nước sơn son thếp vàng cổ. Ngoài ra còn có hai trang thờ tả ban, bức hoành "chung linh lưu tú", hai cặp câu đối bằng thân cây dừa ở chánh điện đều là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị.
Trong di tích đình Thông Tây Hội còn giữ 37 hiện vật quí. Các hiện vật là các tác phẩm chạm khắc nghệ thuật như bao lam, hoành phi, câu đối, trang thờ đều giữ được đường nét, màu sắc sơn son thếp vàng của hiện vật cổ, không bị phết lên những lớp son mới như một số ngôi đình khác thường làm. Đề tài chạm khắc trong đình Thông Tây Hội rất phổ biến đối với các công trình tôn giáo trong thành phố Hồ Chí Minh. [4]

Thờ cúng


Bia ông Hổ
Đình Thông Tây Hội thờ Thành Hoàng theo tục thờ thần của người Việt Nam. Vị thần chính được thờ trong đình là Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương là Hoàng tử con vua Lý Thái Tổ. Những vị khác được thờ trong đình:

Lễ hội

  • Lễ kỳ yên: là lễ lớn nhất, được cử hành vào hai ngày 14 và 15 tháng 8 âm lịch. Lễ vật chính là con heo đực đen tuyền sắc và bò đực.
  • Ngày 14 tháng 8:
  • 17h: làm lễ túc yết
  • 18h-20h: khai kinh, cầu an
  • Ngày 15 tháng 8:
  • 0h30: làm lễ thỉnh sanh
  • 4h-6h: chánh tế tế thần
  • 6h-7h: cúng tiền hiền, hậu hiền
  • 8h-13h: tiếp khách và các hội đình khác
Buổi chiều tổ chức múa lân, hát bội và kết thúc lễ Kỳ yên. Trong khi cử hành lễ có nhạc lễ, mõ, chiêng, trống.
Ngoài ngày lễ Kỳ yên là lễ chính còn có một số ngày lễ phụ trong năm:
  • Ngày 7 tháng Giêng: lễ hạ nêu
  • Ngày 15 tháng Giêng: lễ thượng ngươn
  • Ngày 15 tháng Ba: lễ thanh minh
  • Ngày 5 tháng Năm: tết Đoan Ngọ - cúng Bà
  • Ngày 15 tháng Bảy: lễ trung ngươn
  • Ngày 15 tháng Mười: lễ hạ ngươn
  • Ngày 25 tháng Chạp: lễ rước ông, dựng nêu
Những ngày lễ này trước kia được cử hành thường xuyên, ngày nay được giản lược đi, chỉ cúng lễ Kỳ yên.[4]

Bảo tồn

Theo tài liệu chữ Hán còn lưu lại trong đình thì lần trùng tu thứ nhất của đình là vào năm Bính Thân (1896). Lần trùng tu thứ hai năm Đinh Mão (1927).
Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn (1698-1998), đình là một trong sáu công trình lớn được trùng tu. Tuy nhiên, lần trùng tu này bị coi là chưa đảm bảo nguyên tắc, khiến cho các hoa văn, bàn ghế của đình bị hư hại[6][7]. Việc quản lý đình cũng chưa được tổ chức chặt chẽ. Hiện nay mặt tiền đình là nơi mát mẻ để một số người dân bày bán hàng đa chủng loại như vé số, trái cây, áo quần. Sân đình được tận dụng để đổ xà bần, phơi quần áo... Đình cũng là nơi tạm cư của một vài người tâm thần sống lang thang, khiến cho khung cảnh nhìn chung rất bầy hầy, khó coi.

THÔNG TÂY HỘI - NGÔI ĐÌNH CỔ NHẤT Ở NAM BỘ

Mặc dù được sinh ra và lớn lên tại đất Sài Gòn này nhưng nhiều điểm văn hóa của mảnh đất thân yêu này mình lại chưa hề ghé đến, chỉ nghe qua ten gọi, bài bào mà thôi. Nhờ đọc bài viết "Có thể bạn chưa biết" của bác Phạm Ngọc Hiệp mà mình đã quyết định đi tìm hiều Đình Thông Tây Hội ở Gò Vấp, được xem là ngôi đình cổ nhất tại Nam Bộ cho đến thời điểm này.


Tọa lạc tại số 107/1 Nguyễn Văn Lượng P.11 Q. Gò Vấp (ngày nay là đường Thống Nhất) là ngôi đình cổ nhất ở Nam Bộ, đình được xây dựng vào khoảng năm 1679 đến nay đã được khoảng 334 năm tuổi.

Tên Thông Tây Hội là do ghép từ hai làng Hạnh Thông Tây và An Hội. Khi hai làng sát nhập (năm 1944) thì đình làng Hạnh Thông Tây được chọn làm đình chung và từ đó được đổi tên thành đình Thông Tây Hội.
Cũng như bao ngôi đình khác, Đình Thông Tây Hội thờ Thành Hoàng theo tục thờ thần của người Việt Nam. Vị thần chính được thờ trong đình là Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương là Hoàng tử con vua Lý Thái Tổ. 
Bước vào bên trong với những cây cao che mát làm cho sân đình thật sạch sẽ, thoáng mát. Từ xa ta sẽ thấy nhà hội sở ngay giữa sân rộng.


Nhìn từ sân đình ta sẽ thấy mặt bằng kiến trúc của đình gồm hai trục song song với nhau: một trục dài (trục chính) gồm võ ca, chánh điện nằm bên trái; một trục ngắn (trục phụ): nhà hội sở nằm bên phải.
Điều đặc biệt nhất ở Đình Thông Tây Hội là đình có rất nhiều cột, có tất cả 156 cột trong đình.
Nhà hội sở là nơi làm việc của ban trị sự, nơi tiếp khách và chuẩn bị tế lễ, có 56 cột trong nhà hội sở, chân cột kê đá xanh, có vách ván ngăn phòng làm việc với nhà kho.


Toàn bộ ngôi đình lợp ngói âm dương, bộ vì kèo chịu lực bằng gỗ, nền lót gạch tàu.

Bên trong nhà hội sở có dãy bàn dài để làm việc, tiếp khách.



Trẹn vách nhà có những chữ hán được sơn son thếp vàng, chữ ở giữa không biết nhưng đoán được bên trái có chữ Tiền và bên phải là chữ Hậu (chắc là Tiền hiền và Hậu hiền)



Toàn bộ khu nhà hội sở thấp hơn sân đình khoảng 9 tấc.

Đây là phần nhà kho phía sau hội sở, ở đây sát với dãy nhà của dân mà không có tường rào nên đình đã bị lần chiếm diện tích rất nhiều. 
Do không đủ kinh phí nên phần hội sở chưa được trùng tu, nâng nền nên các thân cột đã bị mối mối phá hoại, các thanh đà gác mái thì "gãy tới đâu chống đỡ tới đó" chứ không có tiền để tu sửa theo như lời bác Tý trong ban trị sự của đình tâm sự.


Phía trước chánh điện là nhà võ ca. Võ ca có kích thước: ngang 14m, sâu 17,5m, cao 4m là nơi xây chầu, hát bội gồm 7 nếp nhà và 52 cột gỗ, không có tường bao xung quanh. Hiện nay võ ca đã được trùng tu nhưng 2 bên phần cánh còn thiếu, mỗi bên rộng khoảng 4m.

Chánh điện gồm: 2 nếp nhà ghép trùng nhau theo kiểu "trùng thiềm điệp ốc". Mái của hai nếp nhà cạnh sát nhau. Tất cả có 48 cột, chia thành 8 dãy cột, mỗi dãy có 6 cột.


Bốn cột giữa cao nhất là 4,5m, có đường kính là 30 cm (thường được gọi là "tứ tượng") là nơi quan trọng nhất, linh thiêng nhất - nơi đặt bàn thờ thần.
Các chân cột ở chánh điện được có khắc hình lăng trụ thắt ở giữa. Trên nóc chánh điện có tượng lưỡng long tranh châu bằng gốm men xanh. Quanh chánh điện có tường gạch.


Khu bàn thờ phía bên trái
Khu bàn thờ chính giữa
Khu bàn thờ phía bên phải
Bàn thờ Thành Hoàng có 2 mão bên ngoài một mão bên trong hộp kiếng.




Chính điện nhìn từ trong ra ngoài võ ca.

Hành lang đi sang khu miếu thờ Bà Chúa xứ

Không hiểu tại sao trong khu chánh điện của đình lại có bàn thờ Quan công????


mặc dù tượng Quan công rất đẹp.

Khoảng sân sân nằm bên trái của chính điện, ta có thể thấy có 2 miếu thờ. Miếu nhỏ thờ Ngũ hành nương nương và bên trái là miếu thờ Bà chúa xứ.
Bàn thờ Ngũ hành nương nương.
Bàn thờ Bà chúa xứ.
Tượng Bà chúa xứ.


Mái ngói rêu phong.




Miếu thờ ông hổ

Trong di tích đình Thông Tây Hội còn giữ nhiều hiện vật quí. Các hiện vật là các tác phẩm chạm khắc nghệ thuật như bao lam, hoành phi, câu đối, trang thờ đều giữ được đường nét, màu sắc sơn son thếp vàng của hiện vật cổ, không bị phết lên những lớp son mới như một số ngôi đình khác thường làm.
Điều đau lòng nhất hiện nay là tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của đình nhất là khu nhà hội sở. Tuy là di tích lịch sử cấp quốc gia nhưng sự đầu tư, nâng cấp để trùng tu ngôi đình của các cơ quan có thẩm quyền hầu như rất ít. Kinh phí để sửa chữa chủ yếu vào sự đóng góp của nhân dân, bá tánh thập phương. Bên cạnh đó, diện tích của đình không còn rộng như trước, một phần do bị dân lấn chiếm xây dựng nhà cửa, cơ quan công an mượn đất làm trụ sở nhưng đã lâu chưa giao trả mặt bằng nên khuôn viên trong đình không còn thoáng mát nhất là khu bên trái của Chánh điện, do đó khi đình muốn sửa chữa 2 bên hông của võ ca nhưng đình cũng không thể thực hiện do không đủ diện tích thể thi công. Cần lắm sự quan tâm của các cấp có thẩm quyền để ngôi đình cổ nhất này có thể tồn tại lâu hơn nữa.


bố susu
06-2013

Khám phá ngôi đình cổ nhất Nam Bộ



(Kiến Thức) - Với tuổi đời hơn 3 thế kỷ, đình Thông Tây Hội là chứng nhân lịch sử về cư dân vùng Gò Vấp, vùng đất ra đời sớm hơn Sài Gòn - Gia Định.
Kham pha ngoi dinh co nhat Nam Bo

Tọa lạc trên một khu đất rộng 1.500m2 bên đường Thống Nhất thuộc quận Gò Vấp, TP HCM, đình Thông Tây Hội là ngôi đình cổ nhất của vùng đất Gia Định xưa và của cả khu vực Nam Bộ.Kham pha ngoi dinh co nhat Nam Bo-Hinh-2
Đình được xây dựng vào khoảng năm 1679, ban đầu có tên là đình làng Hạnh Thông Tây. Từ năm 1944 đình mang tên Thông Tây Hội, do ghép từ tên hai làng Hạnh Thông Tây và An Hội khi hai làng sát nhập.Kham pha ngoi dinh co nhat Nam Bo-Hinh-3
Ngày nay toàn bộ khu đình vẫn gìn giữ được gần như nguyên vẹn cấu trúc và vật liệu xây dựng của ngôi đình cổ. Mặt bằng kiến trúc của đình tạo thành hai trục song song với nhau: một trục dài (trục chính) gồm võ ca, chính điện (khu nhà bên trái trong ảnh); một trục ngắn (trục phụ): nhà hội sở (khu nhà bên phải).Kham pha ngoi dinh co nhat Nam Bo-Hinh-4
Trung tâm của đình Thông Tây Hội là tòa chính điện gồm 2 nếp nhà ghép trùng nhau theo kiểu "trùng thiềm điệp ốc". Chính điện cả có 48 cột, chia thành 8 dãy cột, mỗi dãy có 6 cột.Kham pha ngoi dinh co nhat Nam Bo-Hinh-5
Trang trí của khu vực chính điện rất đặc sắc với các đầu kèo, bao lam, trang thờ thần, các cập câu đối được chạm khắc rất tinh xảo. Nhiều đồ thờ cúng có từ xưa, vẫn giữ nguyên được nước sơn son thếp vàng cổKham pha ngoi dinh co nhat Nam Bo-Hinh-6
Bên cạnh chính điện là nhà hội sở, được dùng làm văn phòng ban trị sự, nơi tiếp khách và chuẩn bị tế lễKham pha ngoi dinh co nhat Nam Bo-Hinh-7
Nhà hội sở có kích thước: ngang 12m, dài 19m, cao 4,2m; có 56 cột, chân cột kê đá xanh, có 3 nếp nhà "trùng thiềm điệp ốc"; có vách ván ngăn phòng làm việc với nhà kho.Kham pha ngoi dinh co nhat Nam Bo-Hinh-8
Toàn bộ ngôi đình lợp ngói âm dương, trên nóc chính điện có tượng lưỡng long tranh châu bằng gốm men xanh.Kham pha ngoi dinh co nhat Nam Bo-Hinh-9
Đình còn có các thành phần kiến trúc phụ như bia ông hổ, bàn thờ Thần Nông, miếu Bà Chúa Xứ (trong ảnh)Kham pha ngoi dinh co nhat Nam Bo-Hinh-10
Đình Thông Tây Hội thờ Thành Hoàng theo tục thờ thần của người Việt. Vị thần chính được thờ trong đình là Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương là Hoàng tử con vua Lý Thái Tổ. Những vị khác được thờ trong đình: Thần Phúc Đức, Bà Chúa Xứ, Thần Nông, Thần Hổ, Tiên sư, Hậu hiền, Ngũ hành, Quan Đế, Tiền hiền, Liệt sĩ...Kham pha ngoi dinh co nhat Nam Bo-Hinh-11

Với tuổi đời hơn 3 thế kỷ, đình Thông Tây Hội là một chứng nhân lịch sử về cư dân vùng Gò Vấp, một vùng đất ra đời tương đối sớm đối với Sài Gòn - Gia Định.
Quốc Lê

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét