Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2014

Nơi đầu tiên thờ những vị thần giữ biển Đông

Vùng đất được coi là “chính linh” của Tiên Lãng, huyệt đạo của Hải Phòng, nơi quê nhà của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, có ngôi chùa cổ nhất Việt Nam và nơi thờ Ngũ vị đẳng Thần gìn giữ biển Đông ít người biết đến. Đó chính là vùng đất mà xưa kia được gọi là Trang Cảnh Thanh, nay là Kinh Lương, Cấp Tiến.
Đót Sơn, ngôi chùa bị lãng quên.
Kinh Lương, trước là Kinh Thanh, Cảnh Thanh, huyện Bình Hà, phủ Nam Sách, Hải Dương. Đây là nơi có đình Khai quốc Kinh Lương, đền Khai quốc Đống Duy và chùa Đót Sơn, trung tâm Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ V đến trước năm 1945.
Trong cuốn Văn Bia Tiên Lãng do PGS.TS Đỗ Thị Hảo, Chủ tịch Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội cùng các cộng sự sưu tầm, biên dịch, chú giải vào năm 2008, vùng đất Kinh Lương chỉ còn lại một tấm bia duy nhất nhưng có niên đại sớm nhất được dựng ở chùa Đót Sơn (chùa Đót) với tên Hoàng Đồ Củng cố Đót Sơn Tự Di Đà Phật Bi và toàn bộ tám văn bia khác đã bị thất lạc.
Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu và khảo cứu tại Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, Viện Cao học thực hành và Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trong cuốn Thư mục Thác bản Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, vùng đất Kinh Lương có các bia gồm bia về Đình Khai quốc Kinh Lương như Tân Tạo hậu Thần bi, về chùa Đót Sơn (Chuyết Sơn) như Hoàng Đồ củng cố Đót Sơn Tự di Đà Phật Bi, Tân tạo Bồ Đề La Hán Bi ký, Tạo thạch Phật Bi, Tân Tạo Thiên đài trụ, Tín Thí, Tân tạo xế giai hậu phòng hành lang bi.
Vốn là vùng đất chính linh của Tiên Lãng và huyệt đạo của vùng, Kinh Lương được nhắc đến trong nhiều thần tích và thần sắc của các triều đại phong kiến và trong các văn tịch liên quan đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đã có rất nhiều sắc phong của các triều đại tại đây. Đến thời kỳ nhà Nguyễn, 13 đạo sắc phong đã được ban cho Ngũ vị Đẳng thần. Toàn bộ các thần tích và thần sắc về vùng đất này vẫn được lưu giữ tại Viện Thông tin Khoa học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
Cũng giống Thánh Gióng, những vị thần được thờ tại Kinh Lương là những bậc hộ quốc công thần và được ân điển cho muôn đời thờ phụng.
Trong miếu có năm bài vị thờ Ngũ vị Đẳng thần gồm Bạt Hải Hữu vi Vô danh Thần vị; Bình Lãng Hữu vi Vô danh thần vị; Mạnh tướng húy danh Phương Thần vị; Đống Duy húy danh Tụy Thần vị và Thần kỳ Cửa Chùa húy danh Tề Thần vị, ghi bằng chữ Nôm.
Bạt hải Đại vương tôn thần, vị thần "hữu vi, vô danh" tức có nhiều công giúp nước nhưng không biết đến danh tính, là một vị thần liên quan trực tiếp đến biển. Ngài Thiên Quan Bình lãng Đại Vương, cũng là vị Hữu vi Vô danh, là vị thần giúp nhân dân bình được sóng gió. Ba vị Mạnh Tướng Đăng Kinh Đại Vương, Hỏa thần Đống Duy Đại Vương, Thần Kỳ Cửa Chùa Đại Vương, là những vị Nhãn Thần, được coi như những con mắt dõi theo và bảo vệ dân. Do đó có thể nói Ngũ vị Đẳng thần này liên quan trực tiếp tới Biển Đông của Việt Nam. Ân chuẩn thờ phụng các Ngài còn mãi cho đến khi đình, đền, chùa bị tàn phá trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sự tàn phá và quên lãng một di sản quan trọng của đất nước là một điều rất đáng tiếc.
Theo Văn tịch về Thần Tích và Thần Sắc về làng Kinh Lương được lưu giữ tại Viện KHXH Việt Nam, đây là nơi thờ Ngũ vị Đẳng Thần gồm Mạnh Tướng Đăng Kinh Đại Vương (Nhãn thần), Hỏa thần Đống Duy Đại Vương (Nhãn thần), Thiên Quan Bình Lãng Đại Vương (Thiên thần), Thần Kỳ Cửa Chùa Đại Vương (Nhãn thần) và Bạt Hải Đại Vương Tôn Thần (Thiên thần). Những vị này đã giúp Vua Đinh Bộ Lĩnh sau khi xưng đế phá tan đạo thủy quân xâm lược Ma Na và hóa thần ngay sau khi giặc giã. Vua Đinh Bộ Lĩnh đã phong thần để nhân dân muôn đời thờ cúng.
Theo Địa chí Hải Phòng (1990), đoạn về vùng đất Tiên Lãng có viết "Nền văn hóa Tiên Lãng phát triển sớm. Đạo Phật du nhập vào mảnh đất này từ thế kỷ V, VI. Khoảng thời gian ấy, Tiên Lãng đã xuất hiện một trung tâm Phật giáo ở Chùa Đót (Cấp Tiến) với kiến trúc quy mô, bảo tháp và tượng Phật đồ sộ. Chùa Đót đã hoạt động liên tục suốt các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc ... kích thích sự ra đời của hàng chục ngôi chùa khác ở Tiên Lãng, trong đó có hẳn một kho chứa kinh đặt ở Chùa Thiên Tộ (Phác Xuyên - Bạch Đằng)". Chùa Đót Sơn, nơi cùng với Chùa Hang ở Đồ Sơn, lưu lại dấu tích của nhiều nhà sư Ấn Độ trong buổi đầu Phật giáo được truyền bá sang Việt Nam.
Tấm bia dựng tại chùa Đót Sơn Hoàng Đồ Củng cố Đót Sơn Tự Di Đà Phật Bi, dựng năm 1491, cho biết “chùa có từ đời nhà Lương (505-543), trải qua các đời Lý Trần, con vị Quản lão ở bản xã cùng vị sư trụ trì đứng ra sửa chùa quy mô to lớn”. Như vậy, có thể khẳng định chùa Đót được xây dựng trước cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế với sự ra đời của nước Vạn Xuân và được coi là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Việt Nam.
Chùa Đót Sơn đầu tiên có tên gọi là Chuyết Sơn (Tiếng Phạn (Hindi) Juisan - có nghĩa nơi tràn ngập không khí kỷ niệm của Phật giáo). Chùa, sau đó, được đổi tên thành là chùa Non Đông vào thế kỷ thứ 10 và Đót Sơn vào năm 1941. Đây là ngôi chùa gắn liền với Đức tổ Huyền Quang, Thánh tổ Non Đông và là kinh đô của Pháp Môn Tịnh Độ Thiền tông. Chùa hiện vẫn còn cây bồ đề được các nhà sư Ấn Độ mang sang khi truyền đạo vào thế kỷ thứ 6 và được coi là cây bồ đề gốc Phật giáo của Việt Nam. Năm 1491, trong lần vãn cảnh chùa sau khi chùa được phục dựng lại, Vua Lê Thánh Tông đã có bài thơ viết tại đây, được lưu lại trong văn bia của chùa. Chùa cũng đổi tên thành chùa Đót Sơn từ thời điểm này.
Chùa Đót Sơn có quy mô lớn, rộng tám mẫu và được coi là kỳ quan của Phật giáo Việt Nam. Ngôi chùa chính nằm ở hướng đông với 100 gian và hoành phi câu đối có ghi dòng chữ Non Đông Tự. Xung quanh chùa chính có hành lang rộng 3m. Đằng sau, phía tây có 100 pho tượng La Hán bằng đá. Chùa có một quả chuông nặng năm tấn.
Trước Cách mạng Tháng Tám, vùng đất Kinh Lương vẫn nổi tiếng với đình Kinh Lương, đền Đống Dõi (Duy) và chùa Đót Sơn với ba giếng thần. Đến năm 1947, Thượng tọa Thích Thanh Lạc trụ trì chùa tròn 100 tuổi, thầy đã tự thiêu ở Sự Đồng Kệ. Trước khi hỏa táng, Thầy đã nói "Ta hỏa táng để Phật pháp được trường tồn".
Trong kháng chiến chống Pháp, giai đoạn 1945-1954, chùa Đót Sơn cũng như đình Kinh Lương là những căn cứ cách mạng quan trọng. Theo một số cán bộ lão thành cách mạng, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã từng ở tại chùa để chỉ đạo kháng chiến khi ông là Chính ủy Quân khu Tả ngạn. Kinh Lương đã trở thành nơi chiến địa ác liệt nhất. Và trong thời gian này, trước sự ác liệt của cuộc chiến tranh, chùa Đót Sơn, đình Kinh Lương và đền Đống Duy đã bị phá hủy. Hòa thượng Thích Thanh Dũng cũng hy sinh trong trận càn của Pháp năm 1953.
Đót Sơn ngày nay đã trở thành Nghĩa trang Liệt sĩ. Toàn bộ các tượng Phật và tượng thần bằng đá đều bị thất lạc. Theo bà con trong vùng, sau khi hòa bình lập lại, các cột đá ở tam quan cũng như nhiều văn bia đã được sử dụng để xây Cống Nẻ. Đất của chùa, đình và đền đã bị giao cho nhiều hộ gia đình. Ngôi chùa chỉ còn lại là một am rất nhỏ, vốn là chiếc bếp xưa của chùa và một cây bồ đề trên nghìn năm tuổi.
Đúng 60 năm kể từ khi đình và đền Khai Quốc và chùa Đót Sơn bị phá, hậu thế mới tiến hành phục dựng lại (đình, đền và chùa bị phá hoàn toàn vào cuối năm 1953 và đầu 1954).
. THEO PHẠM THẮNG (NDO)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét