"(Trần) Quang Khải lúc thì làm tướng võ, khi thì làm tướng văn, giúp cho đế nghiệp của nhà Trần, uy danh sánh ngang với (Trần) Quốc Tuấn. Khi mất (Trần Quang Khải) hưởng thọ 54 tuổi. Ông có để lại cho đời tập thơ Lạc đạo.
Con ông là Văn Túc Vương (Trần) Đạo Tái cũng có tiếng là người văn hay. Cháu ông là Uy Túc Hầu (Trần) Văn Bích, làm quan được phong tới hàm Thái Bảo. Chắt của ông là Chương Túc Hầu (Trần) Nguyên Đán cũng có danh vọng rất lừng lẫy. Xem thế cũng đủ biết phúc đức của dòng Trần Quang Khải sâu rộng và bền bỉ dường nào. Trước sau họ đều gắn bó với cơ nghiệp của nhà Trần". Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 8, tờ 22)
Trần Quang Khải là con của vua Trần Thái Tông và bà Hoàng Hậu Thuận Thiên. Con trưởng của Trần Thái Tông là Trần Quốc Khang (cũng do bà Hoàng hậu Thuận Thiên sinh hạ, nhưng thân sinh là Trần Liễu, anh ruột của vua Trần Thái Tông. Trần Quốc Khang được phong tước Tĩnh Vương), kế đến là Trần Hoảng (tức vua Trần Thánh Tông : 1258 - 1278). Ông là Hoàng Tử thứ ba. Sau ông là các vị Hoàng Tử khác như Trần Nhật Vĩnh, Trần Ích Tắc v.v... Trần Quang Khải chào đời vào tháng 10 năm Tân Sửu (1241), được phong là Chiêu Minh Đại Vương vào tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258). Tháng 3 năm Tân Dậu (1261) ông được phong hàm Thái úy và đến tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282) thì được phong hàm Thái Sư, chức Thượng Tướng Quân.
Khi còn tuổi ấu thơ, Trần Quang Khải đã có lần lâm bệnh nặng, tưởng đã không cứu nổi. Về lần lâm bệnh nặng này của ông, sử cũ chép rằng "(Trần) Quang Khải lúc mới sinh, phát chứng bệnh lên cơn kinh giật, suýt nữa thì không qua khỏi. (Vua Trần) Thái Tông (thấy thế), liền lấy áo của Thượng Hoàng và thanh gươm báu truyền quốc đem đến để bên cạnh rồi nói :
- Nếu sống thì sẽ ban cho những thứ này.
(Nhưng) đến khi ông sống lại, (vua Trần) Thái Tông lại nói rằng :
- Gươm báu truyền quốc thì không thể trao bừa được, chỉ có thể ban cho tấm áo của Thượng Hoàng mà thôi.”
ớn lên, Trần Quang Khải là người có chí lớn, ham học hỏi, là bậc văn tài nồi tiếng, ông sử dụng thông thạo tiếng nói của không ít đồng bào các dân tộc ít người. Vua cha rất yêu quý ông đã đành, ngay cả bậc lừng danh văn võ như Trần Quốc Tuấn cũng rất nể trọng ông. Sử cũ có chép một câu chuyện rất cảm động về ông và Trần Quốc Tuấn như sau :
"(Trần) Quang Khải là người có học thức, hiểu được tiếng nói của giống phiên thuộc (chỉ tiếng của đồng bào các dân tộc ít người trên đất nước ta - NKT). Trước kia, có lần (vua Trần) Thánh Tông đem quân đi đánh giặc, (Trần) Quang Khải theo hầu cận, ngôi Tể Tướng phải bỏ trống. Đúng lúc đó thì có sứ giả của phương Bắc đến, (Thượng Hoàng Trần) Thái Tông liền cho gọi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tới và nói :
- Thượng Tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư Đồ để tiếp sứ phương Bắc.
(Hưng Đạo Vương Trần Quốc) Tuấn trả lời :
- Việc tiếp sứ giả, thần không dám chối từ, còn như việc phong thần làm Tư Đồ thì thần không dám vâng theo chiếu lệnh. Huống nay Quan Gia (tức vua Trần - NKT) đang đi đánh giặc xa. (Trần) Quang Khải đang bận theo hầu mà bệ hạ lại ý phong chức (cho thần), thì như thế, tình nghĩa trên dưới sợ là chưa được ổn, Quan Gia và (Trần) Quang Khải sẽ không được vui. Chi bằng hãy đợi đến khi xa giá trở về, lúc đó, nếu thần xin vâng mệnh cũng chưa muộn.” Thời Trần, quân Nguyên-Mông ba lần sang xâm lược nước ta. Lần thứ nhất (1258) diễn ra khi Trần Quang Khải mới 17 tuổi cho nên, ông chưa có cống hiến gì đáng kể. Nhưng, liên tục trong cả hai lần sau (1285 và 1288), Trần Quang Khải đã lập được rất nhiều chiến công xuất sắc, góp phần to lớn vào thắng lợi vẻ vang chung của nước nhà.
Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai, nhiệm vụ đầu tiên mà rần Quang Khải được đích thân vua Trần trao phó là đi tăng viện cho các cánh quân ở vùng Thanh Hóa và Nghệ An ngày nay. Bấy giờ, quân Nguyên tiến vào nước ta bằng hai hướng khác nhau. Hướng thứ nhất từ Bắc đánh xuống, gồm tất cả 50 vạn quân do chính chủ tướng của giặc là Thoát-hoan trực tiếp chỉ huy. Hướng thứ hai gồm gần mười vạn quân, từ đất Chiêm Thành đánh lên, do tướng Toa-đô cầm đầu. Kế hoạch ban đầu của nhà Trần là quyết không để cho giặc có thể hội quân với nhau. Để thực hiện kế hoạch này, nhà Trần đã sai Trần Quốc Khang và con của Trần Quốc Khang là Trần Kiện, đem quân trấn giữ vùng Nghệ An và Thanh Hóa, tổ chức đánh trả kịch liệt để cản phá lực lượng của Toa-đô. Ngày 28 tháng giêng năm Ất Dậu (nhằm ngày 5 - 3 - 1285), tướng Trần Nhật Duật lại được cử vào để tăng viện. Nhưng, khi Trần Nhật Duật chưa ào đến nơi thì Trần Kiện đã đi đầu hàng quân Nguyên. Trần Quốc Khang vốn là người không có tài cầm quân, vì thế, giặc dễ dàng tập trung lực lượng đánh vào Trần Nhật Duật. Tình hình chiến trường phía Nam vì thế mà trở nên rất khó khăn và phức tạp. Đó chính là lí do khiến vua Trần sai Trần Quang Khải đem quân đi tăng viện cho Trần Nhật Duật. Sự có mặt của Trần Quang Khải đã khiến cho đạo quân của Toa-đô bối rối và sa lầy. Chúng buộc phải đóng lại ở vùng Thanh Hóa và Nghệ An ngày nay. Tháng 4 năm Ất Dậu (1285), nhà Trần tổ chức phản công. Một loạt các chiến dịch lớn được tổ chức. Trần Nhật Duật và Trần Quang Khải được lệnh bí mật vượt qua vùng tạm chiếm để tiến ra Bắc. Chiến dịch Hàm Tử (tháng 4 năm Ất Dậu) do Trần Nhật Duật chỉ huy và người giữ vai trò hợp đồng tác chiến một cách rất tích cực, linh hoạt và đầy hiệu quả là Trần Quang Khải. Toàn bộ lực lượng quân Nguyên đóng giữ ở Hàm Tử nhanh chóng bị đánh cho tan tành.
Cũng ngay trong tháng 4 năm Ất Dậu (1285), Trần Quang Khải đã có vinh dự được cử làm tướng tổng chỉ huy chiến dịch Chương Dương và Thăng Long. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, lực lượng của Trần Quang Khải đã đẩy lùi quân Nguyên ra khỏi hai vị trí trọng yếu này. Nguy cơ bị đại bại thảm hại của quân Nguyên đã bộc lộ rõ rệt. Cộng với các chiến dịch khác như Tây Kết (lần thứ nhất và lần thứ hai), ta đã hoàn toàn quét sạch quân Nguyên ra khỏi bờ cõi. Ngày 6 tháng 6 năm Ất Dậu (1285), Thượng Hoàng Trần Thánh Tòng và vua Trần Nhân Tông, cùng đại quân nhà Trần trở về kinh đô Thăng Trần Quang Khải đã cảm khái mà viết rằng :
“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử Quan.
Thái Bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san”
Nghĩa là :
Cướp giáo giặc ở bến đò Chương Dương,
Bắt giặc Hồ (tức giặc Nguyên-NKT) ở cửa Hàm Tử
Thời thái bình nên gắng đem hết trí tuệ và sức lực (để xây dựng),
Muôn đời (còn mãi) sông núi này.
Trong cuộc kháng chiến lần thứ ba (1288) Trần Quang Khải được bố trí theo hầu cận bên cạnh vua Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng Trần Thánh Tông. Ông vừa lo bảo vệ vua và Thượng Hoàng, vừa sẵn sàng tham gia trận mạc dưới quyền chỉ huy trực tiếp của vua Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng Trần Thánh Tông. Trong trận quyết chiến chiến lược lịch sử, tại Bạch Đằng (9 - 4 - 1288), cùng với hàng loạt các tướng lĩnh xuất sắc khác Trần Quang Khải đã góp phần to lớn vào việc đập tan toàn bộ đạo quân hùng hậu và thiện chiến của nhà Nguyên do tướng Ô-mã-nhi cầm đầu. Sau chiến thắng Bạch Đằng, Trần Quang Khải tiếp tục tận tụy phò tá nhà Trần. Ông nổi tiếng là người có tài giúp vua trị nước, thanh liêm và ngay thẳng. Ngày 3 tháng 7 năm Giáp Ngọ (1294), Thượng Tướng Thái Sư Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải qua đời vì bệnh, hưởng thọ 53 tuổi. Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái đã trang trọng dành cho Trần Quang Khải những lời ca ngợi thật cảm động :
“Rợ Nguyên quen thói tham tàn,
Quân năm mươi vạn những toan tung hoành.
Vua sai Hưng Đạo Tổng Binh,
Với Trần Quang Khải các dinh tiến vào.
Chương Dương một trận phong đào,
Kìa ai cướp giáo ra vào có công.
Hàm Quan một trận ruổi giong,
Kìa ai bắt giặc uy phong còn truyền.
Giặc Nguyên còn muốn báo đền,
Mượn đường hộ tống binh thuyền lại sang.
Bạch Đằng một cõi chiến tràng,
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sông.” (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái : Đại Nam quốc sử diễn ca)
Danh tướng Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét