Đền Ngọc Sơn
|
Vị trí: Nằm trên đảo Ngọc Sơn thuộc hồ Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Đặc điểm: Tuy là một ngôi đền kiến trúc mới xong đền Ngọc Sơn lại là một điển hình về không gian và tạo tác kiến trúc. |
Đảo Ngọc Sơn xưa được gọi là Tượng Nhĩ (tai voi). Vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên đảo là Ngọc Tượng và đến đời Trần thì đảo được đổi tên là Ngọc Sơn. Tại đây đã có một ngôi đền được dựng lên để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Về sau lâu ngày ngôi đền bị sụp đổ. Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thuỵ Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời Lê, cung Thuỵ Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn trên nền cung Thuỵ Khánh cũ. Năm Thiệu Trị thứ ba (1843), một hội từ thiện đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đưa tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn (Văn Xương là nhân vật đời Kiến Vũ, năm 25 - 55 sau công nguyên bên Trung Quốc, sau khi chết được phong là thần chủ về văn chương khoa cử). Theo sách "Hà Thành linh tích cổ lục" thì ngay từ đời Lê, trên đảo Ngọc Sơn đã có đền thờ Quan Công, người nổi tiếng trung nghĩa đời Tam Quốc (Trung Quốc). Khi vua Lê và chúa Trịnh dùng hồ là nơi duyệt thuỷ quân thì đền được coi như một võ miếu. Dân Hà thành đã đem tượng Đức thánh Trần thờ phối hưởng bên cạnh Quan Công. Nhưng "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" lại cho đó là tượng Lê Lai, công thần khai quốc đời Lê đã xả thân cứu chúa. Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa được đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cây cầu từ bờ đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Trên núi Ngọc Bội cũ, ông cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: Nhất đài Phương Đình bút. Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành. Tên cầu Thê Húc nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn. Đền chính gồm hai ngôi đền nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút được đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Phía nam có đình Trấn Ba (đình chắn song - ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có 8 cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Các nhân vật được thờ trong đền ngoài Văn Xương Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân Trường, Trần Hưng Đạo, còn thờ cả phật A Di Đà. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt. Sự kết hợp giữa đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên. Đền và hồ đã trở thành những chứng tích gợi lại những kỷ niệm xưa về lịch sử dân tộc, thức tỉnh niềm tự hào, yêu nước chính đáng cũng như tâm linh, ý thức mỗi người Việt Nam trước sự trường tồn của dân tộc.
Đền Ngọc Sơn những điều ít biết
Với
thế hệ trẻ ngày nay, ít ai biết rằng, đền Ngọc Sơn từng trải qua bao
thăng trầm, biến thiên, để rồi đứng vững vàng, lộng lẫy giữa lòng Hà Nội
như ngày nay.
Nổi bật giữa Hồ Gươm trong xanh, đền
Ngọc Sơn được xây dựng trên một đảo nhỏ nằm về phía Bắc của hồ mang vẻ
đẹp cổ kính và sang trọng hiếm có. Với thế hệ trẻ ngày nay, ít ai biết
rằng, nơi đây từng trải qua bao thăng trầm, biến thiên, để rồi đứng vững
vàng, lộng lẫy giữa lòng Hà Nội như ngày nay.
Sách cổ còn ghi, khởi nguyên, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đã đặt tên ngôi đền là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hi sinh trong kháng chiến chống Nguyên Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ. Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735-1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thụy Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời nhà Lê, cung Thụy Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn.
Bài kí trên văn bia chữ Hán Ngọc Sơn Đế
Quân từ ký, do Tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm1843còn ghi được sự kiện này
như sau: "...Hồ Tả Vọng tên cũ gọi hồ Hoàn Kiếm là một danh thắng đất
Kinh kỳ xưa. Phía Bắc mặt hồ, một gò đất nổi lên rộng khoảng ba bốn sào,
tương truyền là chỗ đài câu cá thời cuối Lê. Trước đây, ông Tín Trai
làng Nhị Khê nhân có đền Quan Đế tại đấy bèn mở rộng sửa sang thêm gọi
là chùa Ngọc Sơn...".
Vậy thì trong lịch sử, trong khu vực đền Ngọc Sơn ngày nay vốn có ngôi chùa tên là chùa Ngọc Sơn. Chùa quay mặt hướng Nam, phía trước dựng gác chuông, phong cảnh nhờ thế càng thêm khởi sắc. Tuy nhiên, trải tháng năm lâu ngày, ngôi chùa bị đổ nát, tưởng chừng chùa cũng muốn đi theo người. Ít năm sau chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội gồm những người xuất thân khoa mục tham gia. Khi mới thành lập, mục đích của hội chủ yếu là khuyến khích làm việc thiện. Hội thờ Văn Xương Đế Quân nhưng chưa có đền thờ. Những người con của ông Tín Trai có quan hệ mật thiết với hội nên đã tình nguyện nhượng lại chùa này cho hội. Toàn hội đến làm lễ trước ngài Văn Xương Đế Quân, xin được quẻ bói viết rằng: Bảo kiếm tân ma bách hiện quang, Tứ phương chiếu diện nhậm hành tàng. Tòng tiền tự hữu căn cơ tại Nhuận sắc tăng huy thanh bá dương.
Nghĩa là:
Gươm báu mới mài ánh sáng choang,
Bốn phương chiếu rọi mặc hành tàng. Từ xưa nền tảng còn nguyên đó Nhuận sắc khang trang nức tiếng vang. Theo đó, hội tiến hành tu bổ đền thờ, dỡ bỏ gác chuông chùa, cải tạo chùa thành đền thờ Văn Xương Đế Quân. Đền được khởi công từ mùa Đông năm Tân Sửu (1841) đến mùa Thu năm Nhâm Dần (1842) thì hoàn thành. Năm Tự Đứcthứ 18 (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Trong văn bia Trùng tu Văn Xương miếu bi ký, do Án sát sứ tỉnh Hà Nội là Đặng Lương Hiên soạn vào khoảng thời gian sau khi tu sửa lại đền, ghi lại rằng: "...Hiện nay đền thờ mới đã hoàn thành, phía trước kề bờ nước, làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng văn hóa. Bên tả, phía Đông cầu Thê Húc, dựng Đài Nghiên. Lại về phía Đông trên núi Độc Tôn, xây Tháp Bút, tượng trưng cho nền văn vật. Qua ba bốn năm, dựa vào tiền quyên góp mới làm xong...". Với các văn nhân ở Hà Nội lúc bấy giờ, việc hướng thiện và chấn hưng giáo dục rất được đề cao. Khi dựng lại đền Ngọc Sơn, ngụ ý của các nhà trí thức là muốn nêu cao nền giáo hóa mang ý nghĩa nhân văn cao cả. Vì thế trong bài ký, Án sát sứ Đặng Lương Hiên nhấn mạnh rằng: "Miếu thờ Văn Xương ở khắp thiên hạ, để dạy mọi người làm điều thiện mà thôi. Nhưng người ta làm điều thiện không gì quan trọng bằng ngăn lòng dục của người mà bảo tồn lẽ phải của trời, chẳng cầu phúc mà tự nhiên được phúc".
Thành Thăng Long xưa là một nơi lễ giáo,
trải qua bao phen biến đổi, danh thắng hoang tàn. Cảm nhớ dấu xưa mà
các trí thức văn nhân đã sửa sang phục hồi, đủ khiến non sông thêm vẻ
đẹp. Về sau, đền thờ thêm Lã Tổ (thần coi về thuốc chữa bệnh) và thờ
Trần Hưng Đạo, vị anh hùng đời Trần, tương truyền đã cho tập trận thủy
quân tại hồ này (vì thế Hồ Gươm trước đó có tên là hồ Thủy Quân).
Trải qua nhiều sự thay đổi, như một nhân duyên định mệnh, đền Ngọc Sơn vốn là ngôi đền, rồi xây chùa, rồi dỡ chùa dựng lại đền và đền trở thành đền Ngọc Sơn tồn tại cho đến ngày nay và mãi về sau. Một không gian đẹp nên thơ giữa Hồ Gươm trong xanh, nổi bật trên nền trời là ngọn tháp bút vòi vọi tạo nên không khí thanh bình yên ả, mà lại đầy hào khí văn chương chữ nghĩa của Hà Nội dấu yêu. Cũng vì nơi đây là nơi văn nhân Hà Nội và bạn bè tứ phương thường hay tới, nên mỗi dấu ấn ở đây đều mang ý nghĩa văn chương tao nhã mà sâu sắc. Chẳng hạn ngay cổng ngoài đã có những dòng chữ Hán mang ý nghĩa triết tự rất ý nghĩa như: Ngọc ư tư (nghĩa là: Ngọc ở đây); Sơn ngưỡng chỉ (nghĩa là: Ngửa trông núi). Quả đúng như lời ứng nghiệm của quẻ bói năm nào, đền Ngọc Sơn trở thành một nơi nhuận sắc khang trang nức tiếng vang. Bạn bè thế giới và nhân dân khắp đất nước, mỗi khi tới Hà Nội đều đến thăm đền Ngọc Sơn xinh đẹp. Ngày nay, sĩ tử trước ngày đi thi thường dập dìu ghé qua đền Ngọc Sơn thành tâm cầu khấn, mong muốn được ngôi sao văn chương phù hộ cho đỗ đạt khoa trường. Đúng như lời Tiến sĩ Vũ Tông Phan viết trong văn bia Ngọc Sơn Đế Quân từ kí: "Kể từ nay việc thờ thần có nơi có chốn, các bậc sĩ phu cùng nhau hẹn ước đi về. Người mến cảnh càng thêm yêu cả cái danh. Trong hội, ai ẩn dật tu hành, ai muốn du ngoạn, nghỉ ngơi đều đã có nơi có chốn. Hứng vui ngắm trăng dưới nước, hứng vui hóng gió trên non, có thể giúp nhiều cho điều thiện, đâu chỉ riêng mình được hưởng". Đài PT&THHN Đền Ngọc Sơn những điều ít biết
Với thế hệ trẻ ngày nay, ít ai biết rằng, đền
Ngọc Sơn từng trải qua bao thăng trầm, biến thiên, để rồi đứng vững
vàng, lộng lẫy giữa lòng Hà Nội như ngày nay.
Nổi bật giữa Hồ Gươm trong xanh, đền Ngọc Sơn được xây dựng trên một đảo nhỏ nằm về phía Bắc của hồ mang vẻ đẹp cổ kính và sang trọng hiếm có. Với thế hệ trẻ ngày nay, ít ai biết rằng, nơi đây từng trải qua bao thăng trầm, biến thiên, để rồi đứng vững vàng, lộng lẫy giữa lòng Hà Nội như ngày nay. Sách cổ còn ghi, khởi nguyên, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đã đặt tên ngôi đền là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hi sinh trong kháng chiến chống Nguyên Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ. Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735-1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thụy Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời nhà Lê, cung Thụy Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Vậy thì trong lịch sử, trong khu vực đền Ngọc Sơn ngày nay vốn có ngôi chùa tên là chùa Ngọc Sơn. Chùa quay mặt hướng Nam, phía trước dựng gác chuông, phong cảnh nhờ thế càng thêm khởi sắc. Tuy nhiên, trải tháng năm lâu ngày, ngôi chùa bị đổ nát, tưởng chừng chùa cũng muốn đi theo người. Ít năm sau chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội gồm những người xuất thân khoa mục tham gia. Khi mới thành lập, mục đích của hội chủ yếu là khuyến khích làm việc thiện. Hội thờ Văn Xương Đế Quân nhưng chưa có đền thờ. Những người con của ông Tín Trai có quan hệ mật thiết với hội nên đã tình nguyện nhượng lại chùa này cho hội. Toàn hội đến làm lễ trước ngài Văn Xương Đế Quân, xin được quẻ bói viết rằng: Bảo kiếm tân ma bách hiện quang, Tứ phương chiếu diện nhậm hành tàng. Tòng tiền tự hữu căn cơ tại Nhuận sắc tăng huy thanh bá dương.
Nghĩa là:
Gươm báu mới mài ánh sáng choang,
Bốn phương chiếu rọi mặc hành tàng. Từ xưa nền tảng còn nguyên đó Nhuận sắc khang trang nức tiếng vang. Theo đó, hội tiến hành tu bổ đền thờ, dỡ bỏ gác chuông chùa, cải tạo chùa thành đền thờ Văn Xương Đế Quân. Đền được khởi công từ mùa Đông năm Tân Sửu (1841) đến mùa Thu năm Nhâm Dần (1842) thì hoàn thành. Năm Tự Đứcthứ 18 (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Trong văn bia Trùng tu Văn Xương miếu bi ký, do Án sát sứ tỉnh Hà Nội là Đặng Lương Hiên soạn vào khoảng thời gian sau khi tu sửa lại đền, ghi lại rằng: "...Hiện nay đền thờ mới đã hoàn thành, phía trước kề bờ nước, làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng văn hóa. Bên tả, phía Đông cầu Thê Húc, dựng Đài Nghiên. Lại về phía Đông trên núi Độc Tôn, xây Tháp Bút, tượng trưng cho nền văn vật. Qua ba bốn năm, dựa vào tiền quyên góp mới làm xong...". Với các văn nhân ở Hà Nội lúc bấy giờ, việc hướng thiện và chấn hưng giáo dục rất được đề cao. Khi dựng lại đền Ngọc Sơn, ngụ ý của các nhà trí thức là muốn nêu cao nền giáo hóa mang ý nghĩa nhân văn cao cả. Vì thế trong bài ký, Án sát sứ Đặng Lương Hiên nhấn mạnh rằng: "Miếu thờ Văn Xương ở khắp thiên hạ, để dạy mọi người làm điều thiện mà thôi. Nhưng người ta làm điều thiện không gì quan trọng bằng ngăn lòng dục của người mà bảo tồn lẽ phải của trời, chẳng cầu phúc mà tự nhiên được phúc". Trải qua nhiều sự thay đổi, như một nhân duyên định mệnh, đền Ngọc Sơn vốn là ngôi đền, rồi xây chùa, rồi dỡ chùa dựng lại đền và đền trở thành đền Ngọc Sơn tồn tại cho đến ngày nay và mãi về sau. Một không gian đẹp nên thơ giữa Hồ Gươm trong xanh, nổi bật trên nền trời là ngọn tháp bút vòi vọi tạo nên không khí thanh bình yên ả, mà lại đầy hào khí văn chương chữ nghĩa của Hà Nội dấu yêu. Cũng vì nơi đây là nơi văn nhân Hà Nội và bạn bè tứ phương thường hay tới, nên mỗi dấu ấn ở đây đều mang ý nghĩa văn chương tao nhã mà sâu sắc. Chẳng hạn ngay cổng ngoài đã có những dòng chữ Hán mang ý nghĩa triết tự rất ý nghĩa như: Ngọc ư tư (nghĩa là: Ngọc ở đây); Sơn ngưỡng chỉ (nghĩa là: Ngửa trông núi). Quả đúng như lời ứng nghiệm của quẻ bói năm nào, đền Ngọc Sơn trở thành một nơi nhuận sắc khang trang nức tiếng vang. Bạn bè thế giới và nhân dân khắp đất nước, mỗi khi tới Hà Nội đều đến thăm đền Ngọc Sơn xinh đẹp. Ngày nay, sĩ tử trước ngày đi thi thường dập dìu ghé qua đền Ngọc Sơn thành tâm cầu khấn, mong muốn được ngôi sao văn chương phù hộ cho đỗ đạt khoa trường. Đúng như lời Tiến sĩ Vũ Tông Phan viết trong văn bia Ngọc Sơn Đế Quân từ kí: "Kể từ nay việc thờ thần có nơi có chốn, các bậc sĩ phu cùng nhau hẹn ước đi về. Người mến cảnh càng thêm yêu cả cái danh. Trong hội, ai ẩn dật tu hành, ai muốn du ngoạn, nghỉ ngơi đều đã có nơi có chốn. Hứng vui ngắm trăng dưới nước, hứng vui hóng gió trên non, có thể giúp nhiều cho điều thiện, đâu chỉ riêng mình được hưởng". |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét