Chúng tôi đã có dịp đến thôn Hảo Sơn, xã Gio An, huyện Gio Linh và tận mắt chứng kiến công trình gồm 14 giếng cổ mà Bộ Văn hóa - Thông tin đã xếp hạng "di tích lịch sử - văn hóa" cấp quốc gia từ đầu thập niên 80 của thế kỷ trước. Hệ thống giếng cổ này cách thị xã Đông Hà khoảng 20 km về phía tây bắc, có thể đi bằng ô tô đến tận nơi.
"
|
Đó là một hệ thống giếng thơi rất lạ lùng và hiếm có. Chị Trần Thị Quỳnh Nga, ủy viên văn hóa - xã hội của xã Gio An cho biết: “Các giếng ngày nay có lẽ đã cạn so với trước, nhưng nước vẫn trong vắt, có thể nhìn thấy những con cua nhỏ lội dưới đáy…”. Xung quanh thành giếng là những lớp sa thạch được xếp chồng khít lên nhau rất đẹp. Trẻ con trong thôn Hảo Sơn vẫn hằng ngày ra tắm lội trong những giếng này. Nối từ các giếng ra ruộng (đang được trồng rau xà lách xoong) là những kênh dẫn nước chắn bằng sa thạch.
Giữa các giếng cao và thấp cách nhau cả chục mét, nước từ trong các khe đá chảy ra cũng trong xanh. Dân làng cho biết, mùa hè nước rất mát và mùa đông thì nước lại ấm, nên không chỉ tắm giặt, tưới rau mà các giếng này còn là nguồn cung cấp nước uống tinh khiết cho dân làng. “Ngày nay, những ống tre dẫn nước không còn nữa, nước từ giếng này sang giếng khác và ra ruộng, do địa hình, theo những kênh tự chảy...”, chị Nga nói.
"
|
Trong công trình nghiên cứu về văn minh lúa nước và nghề trồng lúa tại Việt Nam, Giáo sư Bùi Huy Đáp từ trước năm 1980 đã giới thiệu một công trình khảo cổ học có giá trị về một hệ thống giếng nước của người Việt cổ trên đất Gio Linh, huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị).
Đây là hai di chỉ được giới khảo cổ Việt Nam phát hiện, có niên đại cách đây khoảng trên dưới 4.000 năm. "Hệ thống tưới nước Gio Linh được xây dựng cuối thời kỳ đá mới là công trình nước tự chảy của người xưa khá tinh vi. Từ cao xuống thấp, có một khoảng phẳng rộng tập trung lấy nước, một bể chứa hứng nước từ trên núi xuống, bể thứ hai hứng nước từ bể ở trên bằng ống máng (làm từ cây luồng - một loài tre to, thẳng có mắt nhỏ) và thấp nhất là một đầm nước rộng có mương đưa vào ruộng. Trong hệ thống này có công trình giếng Kình khá tinh vi...". Cũng theo Giáo sư Bùi Huy Đáp, cuộc cách mạng thời kỳ đá mới đã làm cho nghề trồng lúa phát triển và những tiến bộ về trị thủy của người Việt cổ (theo Văn minh lúa nước và nghề trồng lúa Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội 1985).
Theo những tài liệu khảo cổ để lại, thì đây là một tài sản quý hiếm không chỉ đối với nghề trồng lúa nước lâu đời của cư dân Việt cổ, mà còn là một di tích lịch sử quan trọng trong hàng chục di tích lịch sử cận đại khác của khu vực Gio Linh nằm gần kề đường Hồ Chí Minh, trong đó có nghĩa trang Trường Sơn, di tích Dốc Miếu (phía bờ nam sông Bến Hải thuộc hệ thống các điểm du lịch DMZ nổi tiếng). Du khách đi theo tuyến du lịch Xuyên Á hoặc tham dự các tour DMZ ở Quảng Trị, đường Trường Sơn có thể đi thăm di tích cổ rất có giá trị này.
Trương Điện Thắng
| Độc đáo hệ thống khai thác và xử lý nước cổ ở xã Gio An (Quảng Trị) | ||
Hệ thống giếng cổ này bao gồm hơn 30 giếng, nằm rải rác hai bên đường 75 (Km 7,8), ở 5 thôn: An Nha, An Hướng, Hảo Sơn, Long Sơn, Tân Văn thuộc địa phận xã Gio An, huyện Gio Linh; cách nghĩa trang liệt sỹ Quốc gia Trường Sơn khoảng 4 km về phía Đông Nam. Đây là một loại hình di tích độc nhất vô nhị, không chỉ của Quảng Trị mà còn đối với cả nước. Khẳng định những giá trị lịch sử, văn hoá đặc sắc của hệ thống di tích này và tạo cơ sở pháp lý để bảo tồn và phát huy hiệu quả của nó, ngày 13/3/2001 Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã quyết định công nhận là di tích Quốc gia.
Đây là những công trình khai thác nước ngầm độc đáo của các thế hệ dân cư trên vùng gò đồi miền tây Gio Linh. Đặc điểm kỹ thuật nổi bật của hệ thống khai thác nước là các công trình đều xây dựng theo phương thức xếp kè, và đẻo bằng đá bazan mà dân địa phương gọi là đá ong, đá mồ côi. Về khái quát, có thể phân hệ thống khai thác nước ở Gio An tập trung 3 loại chính sau:
Loại thứ nhất: Là loại có cấu trúc hoàn chỉnh nhất. Người ta dựa vào những mạch nước ngầm chảy ra ở triền đồi rồi dùng đá xếp ngăn lại ở xung quang tạo nên một bể lắng (bể hứng). Phía dưới bể hứng còn có một bể nữa gọi là bể chứa. Nước từ bể lắng chảy xuống bể chứa qua một bãi tràn có đặt các miếng đá, máng đá này được chế tác từ đá bazan dạng nữa hình trụ bổ dọc, dài từ 1,3 – 1,5m, mặt trên có một đường rãnh chạy dọc dài theo thân để dẫn nước. Bể chứa hình tròn hoặc hình bầu dục được xếp đá xung quanh, phía ngoài có các đường cho nước thoát ra chảy vào các con mương. Bể chứa thường sâu từ 1 - 2m, rộng từ 15 – 30m2 . Đây vừa là nơi lấy nước sinh hoạt phục vụ ăn uống, vừa là nơi tắm giặt của con người. Ngoài ra còn có các kênh mương dẫn nước được kè đá hoặc đắp bằng đất chạy ngoằn nghèo, có nhiệm vụ nhận nước trực tiếp từ bể chứa rồi dẫn ra ruộng. Những giếng thuộc loại này tiêu biểu là: Giếng Đào, giếng Trạng (An Nha), giếng Côi, giếng Kình (An Hướng), giếng Máng (Long Sơn), giếng Gái (Hảo Sơn).
Loại thứ hai: Là giếng không có bể lắng, không có máng dẫn mà thường là các bể chứa nhận trực tiếp nước từ những mội nước (mạch ngầm) phun nổi có lưu lượng dòng chảy mạnh. Phía ngoài có cửa thoát nước ra mương dẫn hay chảy ra ruộng. Loại công trình này do chỉ có một bể chứa nên tất cả các sinh hoạt đều diễn ra trong lòng bể. Vì thế, để giữ vệ sinh người ta rãi một số khối đá chắn ngang 1/3 bể phía trong với mục đích tạo ra một đường ranh giới quy ước, từ đó phần bên trong chỉ dành lấy nước ăn, phần bên ngoài là nơi tắm giặt. Những giếng thuộc loại này tiêu biểu là giếng Ông, giếng Tép (Hảo Sơn), giếng Nậy (Thanh Khê).
Loại thứ ba: Giếng hình dáng giống giếng khơi cổ truyền ở vùng đồng bằng của người Việt, bằng cách thả “bi giếng” xuống nơi có mạch nước ngầm tạo thành vách từ dưới đáy lên khỏi mặt đất, các bi giếng là một khối đá nguyên, hình trụ tròn, mặt ngoài khum, dạng hình tang trống cao chừng 0,4m, đường kính 0,5m, dày 0,1m. Nền được xếp các phiến đá ong ghè đẻo sắc sảo. Mặc dù có sự khác biệt về cấu trúc đối với hai loại trên nhưng nó vẫn giữ nguyên tắc khai thác nước ngầm.
Từ trước đến nay đã có nhiều nhà khảo cổ trong và ngoài nước quan tâm đến các công trình dẫn thuỷ cổ này như: M.colain, Trần Quốc Vượng, Lâm Mỹ Dung, Lê Duy Sơn, … Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc, chủ nhân, niên đại, … song giới nghiên cứu đều công nhận đây là những sản phẩm văn hoá được hình thành bởi sự sáng tạo tuyệt vời của con người từ rất xa xưa.
Hệ thống dẫn thủy cổ Gio An là là một loại hình di tích độc đáo của Quảng Trị và cả nước, có giá trị về lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật và cả sinh thái. Từ người bản địa cổ đến người Việt Nam sau này hệ thống dẫn thuỷ cổ Gio An vẫn tồn tại với thời gian, vừa là những di tích có giá trị vừa mang chức năng sử dụng, trở thành một trong những sản phẩm văn hoá đặc sắc, độc đáo, thể hiện lối ứng xử khôn khéo, thông minh của con người trước tự nhiên để phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Nó vừa là sản phẩm vừa là đặc trưng của cư dân nông nghiệp, phản chiếu sự kế thừa giữa các thế hệ dân cư nơi đây.
Tuy nhiên do đặc thù của di tích này cùng một lúc tồn tại song song hai giá trị: Di tích – Sử dụng, cho nên giải quyết hài hoà vấn đề giữ gìn di sản và vấn đề sử dụng để lấy nước, phát triển cây rau liệt (là một loại rau chỉ trồng được ở nơi này, cho hiệu quả kinh tế cao) không chỉ là trách nhiệm của cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương mà đòi hỏi sự góp sức, tự giác của toàn dân và các tổ chức xã hội. Đây là một di tích lịch sử - văn hoá cần được đầu tư, khai thác du lịch./.
V.C (st)
Độc đáo hệ thống giếng đá cổ ngàn năm tuổi ở Quảng Trị
Cùng về xã Gio An, Gio Linh (Quảng Trị) trải nghiệm cuộc sống của người dân và hòa mình vào dòng nước trong mát từ hệ thống giếng cổ nơi đây.
Theo VTV
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét