Bất cứ người con nào của bản Dao đỏ dù đi xa đến đâu cũng nhớ điệu nhảy lễ tạ tổ tiên mỗi khi năm hết tết đến. Lễ nhảy được tổ chức vào khoảng cuối giờ Thìn, đầu giờ Tỵ ngày 1 - 2 Tết Nguyên đán.
Nghi lễ chính trong lễ này là các điệu nhảy do một tốp nam nữ trong làng thể hiện dưới sự hướng dẫn của thầy cả. Có rất nhiều điệu nhảy như: Nhảy mở đường, nhảy bắc cầu đưa đón thần linh về dự tết, điệu nhảy mời tổ tiên, bố mẹ bằng một chân, đầu cúi thấp, ngón tay trỏ giơ cao; điệu nhảy mời tiên nương, tiểu nữ giáng trần được diễn tả bằng điệu múa cò; điệu múa mời tổ sư thầy cả về dự tết diễn tả kiểu đi của hổ...
Lễ nhảy đã trở thành ngày hội của bản Dao đỏ.
Kết
thúc các điệu nhảy mở đường, đón chào tổ tiên, thần linh, cả dòng họ
tiến hành điệu nhảy rước tượng tổ tiên. Sau lễ tắm gội cho tượng tổ
tiên, con cháu tổ chức các điệu nhảy dâng gà, xôi và lễ vật... Kết thúc
là điệu nhảy múa cờ.Lễ nhảy mang tính tổng hợp khá đầy đủ các loại hình nghệ thuật dân gian khác của dân tộc Dao đỏ, như nghệ thuật nhảy múa, âm nhạc, ngôn ngữ... Lễ nhảy là một tập tục chứa đựng nhiều giá trị văn hóa cổ, đâu đó vẫn còn phảng phất tín ngưỡng thờ gà làm vật tổ (Totem giáo), cầu mong sự bảo hộ và che chở của vật tổ cho sự phát triển và tồn tại của tộc người mình. Ngoài ra, lễ tết này còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong nghi thức thờ cúng tổ tiên (mời, rước và tắm tượng gỗ - hay lễ mộc dục). Đặc biệt, trong lễ nhảy, người Dao đỏ còn hát các điệu hát nói về công lao của đấng tổ tiên, sự tích dòng họ, các sinh hoạt cấy trồng, dệt vải, săn bắn...
Theo Dân Việt
Tết nhảy độc đáo của người Dao
Người Dao ở nhiều vùng ăn Tết từ tháng chạp, tổ chức nhảy múa suốt đêm để thể hiện lòng biết ơn với tổ tiên và cầu mong mùa màng tươi tốt.
Tết nhảy hay "Nhiang chằm Ðao" là nghi lễ cúng Bàn Vương thủy tổ của dân tộc Dao ở nhiều vùng trong cả nước như Phú Thọ, Hòa Bình, Lào Cai, Thanh Hóa hay Ba Vì (Hà Nội). Theo truyền thuyết, trong chuyến di cư vượt biển sang Việt Nam tìm đường sống của con cháu 12 họ Dao, sau nhiều tháng lênh đênh trên biển mà chẳng tới bờ, bất ngờ đoàn thuyền gặp bão, tính mạng bị đe dọa.
Trong cơn nguy cấp, các họ Dao khấn cầu xin Bàn Vương và tổ tiên giúp đỡ vượt qua cơn hoạn nạn, vào đến đất liền an toàn hứa sẽ làm lễ tạ ơn. Lời cầu linh ứng, từ đó về sau, các họ người Dao, kể cả Dao đỏ, Dao tiền hay Dao quần chẹt đều tổ chức Tết nhảy để tạ ơn tổ tiên.
Không giống Tết của người Kinh, tùy vào điều kiện kinh tế của từng gia đình mà mỗi nhà người Dao mới làm Tết nhảy. Thường vài năm mới tổ chức một lần, nhưng không lâu quá 12 năm, vì như thế là vong ân bội nghĩa với tổ tiên, trời đất. Thời gian tổ chức ở mỗi nơi khác nhau, khi thì rằm hoặc 25 tháng chạp, khi chỉ trước Tết Nguyên đán một hôm.
Tết nhảy chỉ làm ở “Nhà cái” (con trưởng, trưởng họ) và là việc của mỗi gia đình, nhưng được cả bản chung tay góp sức từ nấu cỗ đến các nghi thức lễ lạt, nên coi như Tết chung của cả vùng. Người Dao không câu nệ chuyện ăn uống trong Tết nhảy. Lễ cúng chỉ giản đơn gồm thịt và rượu để dâng lên tổ tiên, sau đó được mang ra thiết đãi bà con.
Không cà kê chén rượu, cũng không lai rai khách sáo, bữa cơm Tết nhanh chóng kết thúc để nhường chỗ cho phần quan trọng và độc đáo nhất của ngày Tết là nhảy múa tri ân. Khi tiếng trống, tiếng kèn, chuông đồng vang lên rộn rã là lúc bước chân của những người đàn ông Dao nhún nhảy say sưa theo điệu nhạc. Trước tiên là các điệu múa đưa đường, bắc cầu để đón thần linh, tổ tiên về ăn Tết. Điệu chào bố mẹ, tổ tiên thì nhảy múa một chân, đầu cúi, ngón tay trỏ giơ cao. Điệu mời tiên nương giáng trần được mô phỏng theo điệu cò bay, hai tay dang ngang vẫy vẫy nhịp nhàng...
Vào chính lễ, khởi đầu là điệu múa “tam nguyên an ham” do thầy múa và khoảng 10 thanh niên nam giới biểu diễn để mời thần thánh các binh tướng về dự. Tiếp đến điệu múa dao hay còn gọi là múa “ra binh vào tướng” với những động tác nhảy, quay, nhún, bật tung người rất nhanh, mạnh, dứt khoát, lướt đi trong tiếng trống, thanh la, não bạt trầm hùng.
Rất nhiều điệu múa truyền thống theo quan niệm của từng vùng như múa phát nương, múa chạy cờ, múa kiếm, múa chuông, múa văn, múa võ… Đặc sắc nhất vẫn là múa bắt rùa. Rùa là một trong hai loài động vật được người Dao tôn thờ và kiêng không bao giờ ăn thịt, nên điệu múa bắt rùa dù nhịp nhảy và lời hát có khác nhau đôi chút giữa các vùng nhưng vẫn mang nhiều ý nghĩa đối với người Dao.
Trước đèn thờ cúng Bàn Vương, thầy múa đi trước, theo sau là một tốp thanh niên độ vài chục người ăn mặc đẹp, gọn gàng nối tiếp nhau đảo quanh đèn cúng, diễn tả các động tác tìm rùa, bắt rùa, trói rùa khiêng về nhà để dâng cúng Bàn Vương và các vị thần thánh tổ tiên.
Có nơi nam giới đứng thành vòng tròn, hai người một quay mặt vào nhau để múa bắt rùa. Mỗi người cầm một đồ vật nào đó có thể tạo ra âm thanh theo mỗi điệu nhảy. Khi chân phải bước lên trước, chân trái khụy gối thấp hơn thì đồng thời hai tay cầm nhạc cụ gõ vào nhau.
Nhìn chung động tác của các điệu múa nhảy khá đơn giản, mang tính tượng hình cao nhưng diễn ra liên tục trong 3 ngày Tết nên cần người khỏe mạnh tham gia. Ai mệt thì ra, người khác vào thay thế, người ra ăn uống rượu thịt no say rồi lại vào nhảy tiếp.
Cứ thế mỗi người nhảy múa hàng trăm lượt và động tác như uyển chuyển hơn trong men say rượu Tết, làm cho người xem có cảm giác mình đang được sống trong một thế giới giao hòa giữa quá khứ và hiện tại. Kết thúc Tết nhảy, tiếng tù và sẽ vang lên và tất cả lại cùng ăn thịt uống rượu, chúc gia chủ một năm tốt lành.
Vy An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét