Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Vui hội làng Đăm

Làng Đăm nay là xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Tây Tựu trước kia thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Đây là một làng cổ có truyền thống văn hóa và sản xuất từ lâu đời . “Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy" hay “Làng La canh cửi, làng Đăm đua thuyền" là những câu ca dao quen thuộc vang đến tận kinh thành Thăng Long xưa. Cứ 5 năm một lần, hội làng Đăm sẽ diễn ra trong ba ngày, từ mồng 9 đến 11 tháng ba âm lịch, thu hút nhiều du khách với hội thi bơi chải truyền thống nổi tiếng trên khúc sông Nhuệ cũ, nơi đức thánh Bạch Hạc Tam Giang Đào Trường đã hóa thân.
Từ trung tâm Hà Nội theo hướng quận Cầu Giấy, theo đường 32 đến ngã tư Nhổn, du khách chỉ đi vài cây số là tới làng Đăm. Về làng Đăm, du khách sẽ có một cảm nhận thật yên bình khi rảo qua những gốc đa, giếng nước, sân đình và nhiều dãy nhà ngói cổ chạy dài có tuổi đời ngót nghét cả trăm năm nằm lặng lẽ dưới những tán bàng xanh mát.
Đình làng Đăm thờ Đào Trường, còn gọi là Phúc thần Bạch Hạc tam giang, người có công trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm thời Hùng Duệ Vương. Khi giặc xâm chiếm nước Văn Lang, vua Hùng cho triệu Thổ lệnh Đào Trường để bàn kế đánh giặc. Thổ lệnh tâu rằng: “Ta nên đón đường thủy mà đánh”. Vua đồng ý và giao cho Đào Trường thống lĩnh thủy quân. Chỉ đánh một trận mà đại quân đã dẹp tan quân giặc. Thắng trận trở về, ông được triều đình giao trấn giữ kinh thành Bạch Hạc. Sau đó, ông tiếp tục chỉ huy đại quân Văn Lang đánh tan cuộc xâm lược lần thứ hai của giặc phương Bắc và dẹp yên cuộc nổi loạn ở Hồng Châu. Trên đường từ Hồng Châu trở về, ông đã giao quyền chỉ huy quân đội cho em là Thạch Khanh rồi theo dòng sông nhỏ đến trang Tôn Thất và hóa tại đây. Nhà vua phong cho ông là Thượng đẳng phúc thần: dân làng Đăm lập miếu thờ ông từ đó. Ngoài ra vua còn cho phép 171 làng khác lập đền thờ Bạch Hạc Tam Giang Đào Trường.
Hội bơi chải làng Đăm - Ảnh: Hữu Nghị
Vào ngày hội trong đình sẽ đặt ba cỗ ngai. Một cỗ trong hậu cung, lớn và được "mặc" áo trắng. Ngai thứ hai tiếp theo ngai ở hậu cung, được đặt ở gian giữa đình, nhưng chỗ đó lại thấp hẳn xuống so với hai bên theo chiều dọc của đình. Ngai thứ ba được đặt ở ngoài cùng và là ngai để: ước ra ngự ngoài thuỷ tạ lúc thi bơi thuyền. Cả hai ngai thứ hai và thứ ba đều được “mặc" áo vàng. Ngay cửa giữa của đình nhìn thẳng ra là liên tiếp hai nhà thủy đình cách nhau khoảng bảy tám mét, được gọi chính ngự trong và chính ngự ngoài. Vào những ngày hội, kiệu của đức Thánh rước về được đặt ở chính ngự ngoài, còn chính ngự trong là nơi diễn ra các cuộc tế lễ và sau đó là điểm xuất phát để rước ngai Thánh ra ngự xem bơi.
Thủy tạ được xây dựng trên bờ sông vươn ra mặt nước. Nó chia thành ba phần rõ rệt. Phần trung tâm là nơi ngự giá của kiệu Thánh, bên trái là chiếu dành cho các bô lão cao tuổi và trong hội đồng tế lễ, bên phải dành cho quan khách. Tất cả nhìn ra hướng mặt sông. Đây là một nhánh của sông Nhuệ mà vốn xưa kia các cụ già nói rằng nó nối sông Hồng từ Gối xuống với sông Nhuệ, nhưng nay đã bị cắt nên còn gọi là đầm Đăm. Khúc sông dài khoảng 1000m và cuộc đua thuyền diễn ra tại đó, với vị trí xuất phát là nhà thủy tạ và điểm cuối cùng là đoạn sông trước cửa miếu thờ đức Thánh Tam Giang. Gọi là miếu nhưng đây thực chất là một ngôi đền lớn trong đó còn giữ được khá đầy đủ bia ký và các đồ tế khí cùng hoành phi câu đối.
Mọi sự chuẩn bị cho ngày hội được tiến hành từ trong năm. Ngày mồng 9 tháng ba là ngày mở đầu cho lễ hội của làng. Nghi thức quan trọng nhất của ngày hôm ấy là đám rước Thánh từ miếu xuống đình. Sau khi tế lễ ở đình, làm lễ cáo yết ở miếu, người ta tiến hành rước ngai của Thánh về đình. Đám rước long trọng với đủ lệ bộ và nghi trượng cùng những vị có trọng trách trong ngày hội với đông đảo dân làng. Đám rước đi từ miếu Thượng theo đường làng đi về đình. Tới đình kiệu rước Ngài được đặt ở chính ngự ngoài. Sau đó các tay đô cùng bô lão rước Ngai của Ngài vào đình và ngự tại đó.
Ngoài sông, các thuyền đua của ba thôn cũng tiến hành bơi dạo. Vừa để chào mừng ngày hội, chào mừng Thánh đồng thời cũng là để duyệt lại toàn bộ các bước chuẩn bị của mình xem từ vị trí ngồi của từng trai bơi đã hợp lý chưa, các tay chèo có điều gì phải sửa sang cho tốt và đều, nhịp bơi có đồng đều ăn ý với nhau không; người chỉ huy, người chống sào, tát nước, v.v. . . Tất cả gần như một cuộc duyệt lại từng chi tiết chuẩn bị cho cuộc đua ngày hôm sau. Đồng thời đây cũng là lúc thăm dò trước luồng lạch sao cho tiết kiệm được thời gian nhất mà lại đạt hiệu quả cao nhất. Có thể nói, suốt đêm 9 tháng 3 mọi người đều náo nức chờ đợi. Các trai bơi hồi hộp chuẩn bị cho cuộc thi đấu ngày mai. Dân làng ra thắp hương lễ bái ngoài đình miếu. Các cụ trong ban khánh tiết thay nhau túc trực nhang khói thờ Thánh. Sân đình rộn rã không khí ngày hội làng, đèn đuốc sáng trưng, kẻ ra người vào tấp nập.
Mồng 10 tháng ba là ngày chính hội. Bảy giờ sáng mọi chuẩn bị cho ngày hội phải được hoàn tất. Ngày hội bắt đầu bằng cuộc tế lễ long trọng của hội đồng bô lão trong làng. Mọi nghi thức tế lễ được thực hiện từ chính ngự trong qua quãng sân trước cửa đình và vào đến trong đình. Các bước tế của mỗi tuần tế đều bắt đầu từ chính ngự trong vào đình. Đồ chấp kích, chiêng trống, cờ quạt được xếp ngay ngắn suốt dọc hai bên từ chính ngự trong vào cửa đình còn ở giữa được trải chiếu.
Khi cuộc tế kết thúc, chiêng trống nổi lên rộn rã, báo hiệu cuộc rước sắp bắt đấu, đồng thời là hiệu lệnh để những người có trách nhiệm chuẩn bị. Nghe hiệu lệnh các trai kiệu chuẩn bị. Nghe hiệu lệnh các trai kiệu và những người cầm cờ quạt, chấp kích từ khắp các ngả của hội lần lượt kéo về chung quanh cửa đình. Kiệu rước Thánh được chuyển từ chính ngự ngoài vào chính ngự trong.
Một hồi chiêng trống nổi lên một số trai kiệu cùng các cụ rước ngai Thánh từ trong đình ra chính ngự trong. Theo hiệu lệnh của một cụ già mặc áo tím, cầm trống khẩu mọi người từ từ đặt ngai Thánh vào kiệu. Các cụ xem xét lại tỉ mỉ xem việc đặt ngai đã vững chưa, có nghiêng ngả gì không, lọng che trên ngai đã kín chưa, rồi bắt đầu xếp sắp đội hình. Thứ tự đám rước như sau: hai thanh niên quần áo xanh, quấn xà cạp, mũ chóp nhọn xanh, lúc trước đứng ở cửa đình với roi song đỏ trên tay, nay đi đầu làm nhiệm vụ dẹp đường. Tiếp đến các nam nữ trẻ quần áo trắng, thắt lưng đỏ và đầu quấn khăn đỏ cầm cờ và đồ chấp kích. Sau đó là hai cụ già mặc quần áo tế màu xanh đi giật lùi, mặt hướng vào kiệu Thánh. Theo sau hai cụ là một cụ già khác mặc quần áo tím, tay cầm trống khẩu làm hiệu lệnh cho đám rước. Rồi đến kiệu Thánh với một cụ già mặc áo đỏ (là cụ từ giữ đình) đi sát kiệu, để trông nom, sửa sang bước đi cho các đô kiệu, chỉ bảo người cầm lọng đi sau kiệu che cho đúng ngai Thánh... Hai bên kiệu là hai thanh niên mặc kiểu võ tướng (đầu đội mũ, thắt đai, đi ghệt. . .) cầm gươm bảo vệ kiệu. Đi sau kiệu là các cụ già trong ban tế, các bô lão đến tuổi thượng thọ với áo đỏ, áo vàng theo lớp tuổi cùng dân làng đi rước Thánh. Hai bên lối kiệu đi người làng, khách thập phương chen chân đứng xem đám rước với không khí vô cùng phấn chấn.
Trong khi ngoài đình tiến hành rước kiệu thì ở các thôn những bước kiểm tra cuối cùng cho cuộc đua thuyền được tiến hành. Từ chi tiết nhỏ được kiểm tra và thống nhất giữa các trai bơi và người chỉ huy. Từng thôn làm lễ tiễn đoàn thuyền đua của các thuyền của từng thôn được khiêng ra sông dạo quanh đợi hiệu lệnh tập trung về thủy tạ.
Ba thôn Thượng, Trung và Hạ mỗi thôn có hai thuyền đua. Xưa kia có thêm một thuyền thứ bảy gọi là thuyền Quan. Thuyền Quan không đua mà chỉ làm nhiệm vụ bơi theo quan sát cuộc đua.
Thuyền đua dài tới 15m gồm 18 trai bơi và sáu người khác. Sáu người đó là: ông lái (người lái thuyền), ông dô (là người bắt nhịp, chỉ huy), ông phất cờ (người cầm cờ phất sang phải sang trái để cổ vũ anh em bơi), ông cầm lạng (là người cầm sào, một đầu có móc sắt hình chữ U để chống và đẩy thuyền khi thuyền sát vào thuyền khác một người tát nước (cầm gáo hoặc thứ gì tiện lợi để hắt nước ra khỏi thuyền) và một trọng tài có nhiệm vụ chỉ ngồi theo dõi các trai bơi và những người trong thuyền không được phạm vi các luật lệ quy định. Trai bơi được chọn trong độ tuổi từ 20 đến 35 tuổi có kinh nghiệm và khỏe mạnh.
Đầu thuyền của mỗi thôn đều gắn đầu của ba loài đỉa, ly, hạc. Riêng con hạc luôn luôn gắn với hai thuyền của thôn Thượng vì thôn Thượng có miếu của Bạch Hạc Tam Giang. Còn hai đầu đỉa và ly là của hai thôn dưới. Trong hai thuyền của mỗi thôn lại chia ra một thuyền đông và một thuyền tây, còn sáu thuyền được đánh số thứ tự cho dễ nhớ. Cuộc đua thuyền được tiến hành bơi sáu vòng. Sáng ngày 10- 3 bơi hai vòng, chiều một vòng. Ngày 11- 3 cũng bơi ba vòng như vậy sau đó kết thúc hội .
Điều thú vị ở đây là các thuyền đua sắp hàng bằng nhau trên một quãng sông không rộng, thuyền lại to và dài chứ không xuất phát so le như ở hội đua thuyền ở một vài nơi khác, chẳng hạn như ở Đồng Xâm. Do vậy khi xuất phát, do sự bật lên khá mạnh của các tay bơi, vì vội vàng muốn bứt lên khỏi thuyền khác để lấy không gian và đôi khi không tránh khỏi lúng túng mà các thuyền đã túm tụm vào nhau. Thậm chí lúc đầu chưa chỉnh được tay bơi nên không tạt nước đều tay, người lái chưa định hướng vì tầm nhìn chật nên các thuyền có thể bị xiên ngang, quay cuồng ở một điểm. Vì thế qui định của cuộc đua cho phép các thuyền chen nhau để tìm lối thoát nhưng không được va chạm. Vai trò của người chống (lạng) lúc này là vô cùng quan trọng. Anh ta ngồi ở đầu mũi thuyền cầm lạng ngang ra mắt chăm chăm nhìn hai bên để đẩy và chèn bất cứ thuyền nào áp sát vào thuyền anh ta. Thuyền đối diện cũng trong tư thế như vậy, do đó đã tạo ra một cuộc tranh giành quyết liệt để bứt lên. Song người chống chỉ được phép chen đẩy vào mạn thuyền hoặc mũi thuyền của đối phương chứ không được phép làm bất cứ điều gì xấu ảnh hưởng đến thuyền bạn. Anh ta phải chèo chống sao cho thuyền của anh ta có được không gian mà bứt lên. Do đó, phút hồi hộp nhất chính là lúc này, vì chen chúc nhau nên có thuyền vội vàng nghiêng ngả làm lật úp, song các trai bơi vẫn không bỏ cuộc mà nhảy lên dốc nước, chèo thuyền tiếp tục cuộc đua. Tiếng hô hào của chỉ huy, tiếng trống, tiếng phách cùng tiếng cổ vũ của hàng ngàn người đứng kín hai bờ đã làm cuộc đua mỗi lúc một náo nức. Người các thôn rầm rập chạy hai bên bờ sông cổ vũ cho thuyền thôn mình.
Việc đẩy, chen và chống các thuyền bên cạnh để bứt lên theo dân gian ở đây gọi là búng. Còn khi đến điểm mốc cuối ở đoạn sông trước cửa miếu Thánh, các thuyền bơi cũng phải vòng qua một cột cờ (vòng từ trái sang phải), cả người lái và người lạng (chống sào) phải lướt sao cho khéo đường "cua" tiết kiệm đường đua và thậm chí vượt lên thuyền phía trước mình. Cái đó người ra gọi là dóc và vót góc. Dóc và vót góc càng điêu luyện thuyền đi càng nhẹ và nhanh, còn không khéo sẽ va vào cột mốc hoặc đường cua quá rộng mà mất thời gian. Ngay cả khi các thuyền đã rãn ra nếu người lái và lạng không khéo léo, các trai bơi không đều thuyền vẫn bơi chậm và có trường hợp nước tràn vào thuyền làm đắm hoặc người bơi vội tạt nước lộn nhào xuống sông. Khi đó cả thuyền bám sâu nếu không nhanh xử lý tránh thuyền trước mà vượt lên thì cũng đắm nốt, như vậy sẽ cản trở tốc độ rất nhiều. Người ta tính điểm từng thuyền về đích trước sau mà xếp hạng cộng điểm cho cả đội. Sau một vòng đua các thuyền bơi được nghỉ ngơi khoảng mười lăm phút để hồi sức và rút kinh nghiệm. Người các thôn xô đến thuyền của mình mà nhận xét, nhắc nhở, góp ý cho các trai bơi. Để rồi lại háo hức chờ vòng đua mới.
Trong hai ngày đua thuyền, những lúc ngừng cuộc đua dưới sông thì trên mặt đất sẽ diễn ra những trò chơi dân gian như: đô vật, thả chim, thi cờ bỏi và nhất là chọi gà.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét