Nằm cách trung tâm thành phố Hòa Bình
khoảng 40km, Lũng Vân (huyện Tân Lạc) là một trong bốn cái nôi văn hóa
lớn và cổ xưa nhất ở xứ Mường Hòa Bình. Với cảnh sắc thiên nhiên tươi
đẹp, hùng vỹ cùng nét văn hóa đặc trưng, Lũng Vân đang là điểm đến của
không ít người đam mê xê dịch. Được coi là “nóc nhà xứ Mường Bi”, bởi đó
là vùng đất sinh sống cao nhất của người dân tộc Mường, đồng thời cũng
là nơi chứa đựng rất nhiều câu chuyện đã đi vào huyền thoại.
Lũng Vân gồm những ngọn núi cao hùng vĩ
điệp trùng thấp thoáng trong mây, với những con đường nhỏ nhưng dốc cao
và vô cùng hiểm trở…Chính vì những điều kiện thiên nhiên và địa hình đó,
nơi đây đã từng là điểm đến của một số nhóm phượt và off-road muốn trốn
tránh sự ồn ào thành thị để tìm cho mình những giây phút trải nghiệm
trong một không gian thiên nhiên tĩnh lặng.
Nằm ở độ cao 1200m so với mặt nước biển,
nơi đây quanh năm mây mù bao phủ nên còn có tên gọi Thung Mây. Thung
lũng được bao bọc bởi núi Trâu, núi Pó, núi Tiên, khí hậu mát mẻ, nhiệt
độ trung bình vào khoảng 20 - 23,3ºC. Cái tên Lũng Vân hẳn còn xa lạ với
nhiều người. Một phần bởi nó nằm sâu bên trục đường Hòa Bình - Mộc
Châu, đường tới Lũng Vân lại vô cùng hiểm trở với những đèo dốc liên
tiếp dài 13km. Bởi thế, cũng dễ hiểu khi ít người biết về Lũng Vân.
Theo truyền thuyết được ghi lại trong
áng mo “Đẻ đất, đẻ nước” của người Mường thì đã lâu lắm rồi, chẳng ai
còn nhớ được, giữa chốn núi non hiểm trở đã xảy ra một cơn đại Hồng
thuỷ. Nó bất thần đổ ập xuống trong một đêm mưa gió bão bùng. Dòng nước
cuộn xiết đã cuốn trôi hết nhà cửa, trâu bò, con người và cả núi rừng.
Giữa cuộc tan tác ấy, có đôi vợ chồng bấu víu được trên chiếc bè. Cứ
thế, chiếc bè chìm nổi trong sóng dữ hết ngày này sang này khác cho đến
khi vướng vào một cây cổ thụ khổng lồ có tên là Bi, rễ cây ăn xuyên qua
“chín sông, mười núi” bền chắc đến nỗi cơn đại Hồng thuỷ kia không thể
làm bật gốc. Khi cơn Hồng thuỷ rút đi, đôi vợ chồng nọ cũng không biết
quê xứ của mình ở đâu để trở về. Bởi sau cơn Hồng thuỷ, mặt đất như trở
lại thời hỗn mang, mọi thứ đều tan tác hoặc bị cuốn trôi. Không biết đi
đâu, họ ở lại dựng nhà dưới gốc cây Bi, sinh con đẻ cái, phát rừng làm
nương, cày cuốc sườn đồi thành ruộng bậc thang, làm Cọn lấy nước, thuần
phục muông thú thành vật nuôi, lập bản, lập mường. Nhớ ơn cây thần cứu
mạng, họ đã lấy tên cây đặt tên cho mường. Đó là vùng Mường Bi ngày nay -
một mường lớn và trù phú nhất trong 4 mường Bi - Vang - Thàng - Động
của xứ Mường Hoà Bình. Cái tên Lũng Vân, có lẽ được bắt nguồn từ điểm
đặc trưng của một thung lũng với bốn bề là núi cao dựng, nối nhau trùng
điệp quanh năm chờn vờn mây phủ. Xưa, Lũng Vân còn có tên là Mường Chậm.
Theo những người dân thì chữ Chậm ở đây không phải là sự nhanh, chậm
theo nghĩa thông thường. Nhưng trong tiếng Mường nó cũng chẳng thể hiện ý
nghĩa gì. Nguồn gốc xa xưa của địa danh này cũng chẳng mấy ai rõ. Chỉ
biết rằng truyền thuyết tạo nên xứ Mường trong mây này là một câu chuyện
buồn của một cuộc trốn chạy quan Lang của một gia đình nghèo còn được
ghi trong trí nhớ của một lớp người xưa cũ như một câu truyện truyền
thuyết đời nối đời.
Tương truyền thì trong xứ Mường Hoà
Bình, Mường Chậm là xứ mường trẻ nhất, nằm ở địa thế sâu, xa nhất. Nó là
kết quả cuộc trốn chạy của một nhà dân thường. Vì phạm tội với nhà Lang
nên phải bồng bế nhau bỏ mường đi tìm đất mới. Thuở ấy, nhà lang xứ
Mường Bống ở đất Lạc Sơn cho đắp một con đập dẫn nước về các thửa ruộng
bậc thang lẩn khuất giữa các khe nách núi. Từ khi có con đập, lũ trẻ
thường rủ nhau tắm và chui luồn như những con rái cá trong cái cống dẫn
nước bắc ngang qua chân núi. Một nhà dân thuộc họ Bùi vô tình đan cái
ngõ hầu (đó) chặn một đầu bên kia miệng cống. Mải nô đùa, luồn lách 9
đứa trẻ bị giắt vào ngõ hầu và chết trong đó. Nhà lang phạt vạ, bắt nhà
họ Bùi đan đủ 9 cái ngõ hầu, mỗi năm nộp lúa, ngô... quy ra vàng bạc đầy
9 cái ngõ hầu để nộp vạ cho mường... Không chịu được sự bất công, sau
một mùa lúa mới, trong một đêm tối trời, nhà họ Bùi đã gùi chín gùi lúa
mới bồng bế nhau bỏ mường, trốn khỏi nhà lang. Họ đi miết cho tới khi
lạc vào một vùng hoang vu cây cối rậm rạp. Nghe tiếng Cuốc kêu, biết là
vùng này có nước, họ mới dừng chân ở lại.... Mường Chậm được hình thành
như thế. Con Cuốc chỉ đường cho người trốn vạ nhà lang được nhà họ Bùi
nhớ ơn, không bao giờ ăn thịt. Cuộc sống bình yên trên vùng đất mới của
dòng họ Bùi bắt đầu như vậy. Một năm sau, người vợ của nhà họ Bùi đi xúc
cá, được một quả trứng. Bỏ đi đâu bà cũng bắt đúng quả trứng ấy. Lấy
làm lạ, bà mang về cho gà ấp, quả trứng nở ra một con rắn. Con rắn hiền
lành chẳng bao giờ làm hại ai cả.. Lớn lên, con rắn bò về cái lằn nước
nơi trước kia người vợ nhà họ Bùi vớt được quả trứng. Trước khi đi, rắn
bảo: “Con trả ơn nuôi dưỡng của bố mẹ bằng cách mở rộng đất cho bố cày”.
Một đêm mưa gió, sấm chớp đùng đùng, nước ngập cả mường, kéo đổ cây,
cuốn cả nhà... Đúng lúc ấy, con rắn hiện lên bảo với ông lão họ Bùi:
“con sẽ đi dập dòng nước dữ cứu mường. Lúc con đi, bố phải nhắm mắt đọc
câu thần chú “con tôi làm được” và không được mở mắt nhìn. Nếu không con
sẽ chết ngay!”. Nói rồi, con rắn lao vào dòng nước dữ trong đêm giông
gió. Người cha nghe theo, nhắm mắt đọc câu thần chú. Nhưng rồi cuối cùng
vì sự tò mò, ông mở mắt ra và nhìn thấy một con giao long khổng lồ đang
hút từng đụn nước vào bụng, vừa hút, vừa lấy thân mình khoét núi cho
nước thoát đi...
Cùng với những huyện thoại, cùng với
cảnh đẹp mà không ít người đã phải thốt lên đầy kinh ngạc khi đặt chân
lên vùng đất này là một cuộc sống thanh bình như ở chốn tu tiên. Cuộc
sống trong thung lũng này cứ lung linh huyền ảo như trong một câu truyện
cổ tích có thật. Còn đối với những người dân thì “đây thực sự là một xứ
thần tiên. Ở đây ai cũng được ân hưởng tuổi giời . Cả xã có hơn 400 nóc
nhà với hơn 2.000 nhân khẩu thì có rất nhiều cụ già thọ hơn trăm tuổi
mà vẫn minh mẫn, khỏe mạnh.
Bất chấp dòng chảy thời gian, văn hóa
Mường ở Lũng Vân được bảo tồn khá nguyên vẹn, từ những mái nhà sàn dốc
hình con rùa với đức tin con rùa tượng trưng cho sự vững chãi đến những
bộ váy của người phụ nữ Mường. Những chiếc váy truyền thống đa phần là
màu đen, đầu váy trang trí bằng những hoa văn thổ cẩm nổi bật. Ngày nay,
để phù hợp với lao động, váy có ngắn hơn song những đường nét tinh tế
trong trang trí vẫn được lưu giữ. Lễ hội văn hóa xứ Mường Bi là một
trong những sinh hoạt văn hóa cộng đồng được đông đảo người dân và du
khách quan tâm. Mỗi lễ hội là một bức tranh phản ánh hiện thực xã hội
Mường cổ, tiêu biểu như Nạ Mụ, Nhóm lửa, Xuống đồng, Rửa lá lúa, đặc
biệt là hai lễ hội lớn: Khai hạ, Cơm mới. Bên cạnh đó, người dân Lũng
Vân với sự chân chất vốn có từ trong nếp ăn ở tới lối suy nghĩ hay niềm
tin thờ tự cũng tạo ra sức hấp dẫn không kém với du khách. Cảnh sác
thiên nhiên thanh bình và con người hiền hòa nơi đây cách xa những ồn ã,
khói bụi của thành thị, dễ khiến du khách mở lòng và tạm gác mọi toan
lo thường nhật.
Với những tiềm năng sẵn có, Lũng Vân
hiện đang là một điểm thu hút khách du lịch. Đến Lũng Vân đẹp nhất vào
thời điểm sau tết đến tháng Tư hàng năm, đó là lúc có nhiều mây bao phủ
nhất. Mây bắt đầu từ chiều tối và đến sáng sớm hôm sau tan dần, đến giữa
trưa thì trời quang hẳn. Đến Lũng Vân, du khách có thể tham quan, nghỉ
đêm tại nhà sàn của người Mường, cùng làm những công việc hàng ngày với
người dân hay tham gia các sinh hoạt văn hóa cộng đồng… Ở Lũng Vân có
một chợ duy nhất, nằm ngay trung tâm xã, họp mỗi tuần một lần vào ngày
thứ 3, du khách có thể đến đây để tìm hiểu những màu sắc văn hóa của dân
tộc Mường. Những du khách thích khám phá sẽ không quên dành thời gian
tắm suối, leo núi cô Tiên…
Bảo Anh (TTVN)Lũng Vân, nóc nhà xứ Mường
Ruộng bậc thang ở đây không cao và dốc như trên vùng Cao Bằng, Hà Giang, Lao Cai…) sự “tinh sạch” trên từng thửa ruộng cứ như nó thường xuyên được “quét dọn” (tinh sạch tới mức tôi cũng không nỡ vứt vỏ của chiếc bánh vừa ăn, đành cho vào túi đem về Hà Nội
Đường
đến Lũng mây, nóc nhà xứ Mường của chúng tôi bắt đầu từ 7h sáng. Sau
khi thoát khỏi Hà Nội với những dòng người và xe đông đúc, với những
khói và bụi, tôi mới hỏi “Rốt cuộc chỗ đó thế nào? “Cứ đi rồi sẽ biết
ngay thôi!”. Không vào trung tâm của Thành phố Hoà Bình, chúng tôi chạy
theo con đường mới mở ven Thành phố, tiếp tục ra Quốc lộ 6.
Chỉ
lên núi Ông Tượng, anh bạn hỏi tôi có muốn lên thăm tượng Bác không?
Tôi hỏi anh lên chưa, anh bảo lên rồi, “Vậy anh có biết ý nghĩa của
những bậc thang dẫn lên tượng đài Bác không?” “Không, bậc thang cũng có ý
nghĩa nữa sao?”. “Tất nhiên! mỗi bậc đá và chiếu nghỉ đều có ý nghĩa
liên quan đến cuộc đời hoạt động và tượng đài Bác”. Hồi đấy, sau đợt
tình nguyện tại Lạc Sơn (Hoà Bình), chúng tôi được đưa đến viếng tượng
đài Bác và tham quan công trình thuỷ điện Sông Đà. Từ dưới chân núi,
những bậc thềm đầu tiên, tượng trưng cho tuổi thơ của Bác, và từ những
bậc thềm này, chúng ta nhìn lên vẫn chỉ là đỉnh núi cao, chưa hề thấy
bóng Bác. Sau chiếu nghỉ thứ nhất, là những bậc thang, chiếu nghỉ tiếp
theo, tượng trưng cho từng giai đoạn hoạt động cách mạng của Bác, cũng
theo đó chúng ta sẽ dần thấy hình ảnh Bác trọn vẹn hơn.
Kết
thúc câu chuyện về Bác cũng là lúc chúng tôi rời Quốc lộ 6 đi Lũng Vân.
Nhìn xa phía trước là chập trùng những ngọn núi hùng vĩ thấp thoáng ẩn
hiện trong biển mây - Cao và xa vời, khó lòng tin được, rồi đây chúng
tôi sẽ lại được đứng trên đỉnh cao kia mà nhìn xuống. Thời tiết khá xấu,
mây mù bao phủ khiến cho quang cảnh núi rừng càng thêm âm u, anh bạn
tôi lên tiếng “Sáng qua báo là không mưa, nhưng tới tối thì báo là có
mưa nhỏ”, tôi cười “Thế thì lát nữa trời sẽ nắng”. Từ sau cái ngày Hà
Nội ngập lụt tôi không còn quan tâm nhiều tới mục dự báo thời tiết nữa.
Đường lên thung Mây còn xa lắm, nhưng cảnh sắc nơi đây đã quá sức tưởng
tượng của chúng tôi rồi. Dốc Mun, con dốc nổi tiếng với Cổng Trời và
những vòng cua ngoằn ngèo như muốn thử thách sức người. Từ đây, con
đường cũng trở nên khó khăn hơn, những sườn dốc đứng cheo leo mà có lúc
không kìm nén được tôi đã hét lên vì sợ. Ngày còn là sinh viên thực tập,
khi đi qua những đoạn đường đèo dốc quanh co, tôi cảm thấy nó thật đẹp,
ví như những viền đăng ten trắng trên nền chiếc áo màu xanh đầy thơ
mộng. Giờ đây, cũng trên những con đèo, dốc cua như thế này, tôi lại
nghĩ tới những bàn tay khối óc đã đổ bao tâm huyết, mồ hôi và công sức;
và nghĩ tới những người dân tộc thiểu số, những bản làng sống cheo leo
trên đỉnh núi đã và sẽ sống ra sao trước và sau khi có con đường?
Tấm
biển chỉ dẫn: Lũng Mây 3.5km, Ngổ Luông 11km - vùng đất thuộc khu bảo
tồn thiên nhiên Ngọc Sơn - Ngổ Luông, khiến lòng tham trong tôi lại nổi
lên, giá như thân mình có thể chia làm hai nửa. Nhưng cảm giác sắp được
đặt chân lên nóc nhà của xứ Mường Bi, cũng là bản làng cao nhất của toàn
xứ Mường Hoà Bình, đã kéo chúng tôi đi (đa số dân ở Hòa Bình là người
Thái và người Mường). Không biết bao lần chúng tôi phải dừng lại bởi
những thung lũng hiện ra sau mỗi khúc cua, ruộng bậc thang, dẫu không
vào mùa lúa chín, vẫn đẹp đến say đắm lòng người, ở đó có những người
dân tộc Mường đang cần mẫn lao động vun trồng một vụ mùa bội thu. Nhưng
có lẽ, chưa nơi nào chúng tôi lại dừng lâu như ở thung lũng của những
người dân xóm Lự.
Một
bức tranh với khung cảnh yên bình, trong lành mà hết sức sinh động. Xa
xa phía triền núi, là những nếp nhà sàn cheo leo lúc ẩn lúc hiện trong
mây. Ruộng bậc thang ở đây không cao và dốc như trên vùng Cao Bằng, Hà
Giang, Lao Cai…), sự “tinh sạch” trên từng thửa ruộng cứ như nó thường
xuyên được “quét dọn” (tinh sạch tới mức tôi cũng không nỡ vứt vỏ của
chiếc bánh vừa ăn, đành cho vào túi đem về Hà Nội); những người phụ nữ
Mường đang lao động, từng nhát cuốc bổ xuống thật đều đặn. Thấy chúng
tôi chụp ảnh, họ thì thầm điều gì đó với nhau rồi cười vang. Tôi nhờ anh
bạn, giọng khoẻ, nói vọng xuống, “Cho xin chụp mấy tấm ảnh nhé!”. Tôi
cứ lo là họ không hiểu được tiếng Kinh, nhưng thật không ngờ, họ lại nói
rất sõi “Chụp không đẹp đâu”, “Khi nào thì có lúa chín?” “Còn lâu lắm”
“Sao lại có chỗ đã cấy lúa rồi mà có chỗ chưa cấy?” “Chỗ nào có nước cấy
trước, còn thì phải chờ đến tháng năm có nước, tháng sáu mới cấy được”
“Thế đàn ông đâu mà để toàn phụ nữ đi làm vậy?” “Phụ nữ thì lo việc đồng
áng, đàn ông làm việc khác” “Không có trâu bò hay sao mà lại dùng cuốc
thế kia?” “Có ít lắm, cuốc đất rồi để đấy chờ nước” “Một năm làm được
mấy vụ lúa?” “Có nơi được hai vụ, nhưng nơi không có nước chỉ làm một vụ
thôi” “Có đủ ăn không?” “Không đủ ăn đâu” “Thế thì sống ra sao?” “Phải
vào rừng, phải trồng thêm ngô, thêm sắn”. Tiếng cười nói dường như thưa
dần, rồi họ lại cần mẫn với từng nhát cuốc của mình. “Làm việc nhé,
chúng tôi đi đây”, anh bạn tôi chào sau khi chụp thêm vài tấm ảnh, họ
ngẩng đầu nhìn chúng tôi rồi vẫy tay chào lại. Cuộc hành trình tiếp
tục.
CÂU CHUYỆN Ở THUNG LŨNG MÂY
Vậy
là chúng tôi đang đứng trên Lũng Vân - nóc nhà của xứ Mường Bi ở độ cao
gần 1000m so với mặt nước biển, cách biệt với các khu vực phụ cận bởi
những ngọn đèo có độ cao gần 1300m. Trong “Tứ đại đất Mường” - bốn cái
nôi văn minh lớn và cổ xưa nhất của xứ Mường, người xưa căn cứ theo diện
tích vùng, dân số, sự sung túc, gái đẹp, rượu cần ngon, quyền lực của
nhà Lang, trâu bò nhiều và những chiếc chiêng có tiếng vang xa nhất mà
phân theo thứ tự: nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động.
Ở
đây tôi đã được nghe một truyền thuyết như thế này: Có vùng núi non,
nơi những bản làng đang sinh sống yên bình. Một cơn hồng thuỷ ập đến bất
thần trong đêm cuốn trôi hết tất thảy nhà cửa, bản làng, người dân,
trâu bò và nhấn chìm cả rừng núi. Có đôi vợ chồng nhà nọ bám được một
chiếc bè luồng, chiếc bè chìm nổi giữa sóng dữ hết ngày này sang ngày
khác, thế nhưng họ vẫn bám chặt lấy nhau không rời. Rồi chiếc bè vướng
vào cây Bi - một cây cổ thụ khổng lồ, rễ cây ăn xuyên qua chín sông mười
núi nên vẫn vững vàng trong cơn hồng thuỷ. Cơn hồng thuỷ rút cũng là
lúc tất cả trở nên hoang xơ. Không còn đường về, họ dựng lều ở ngay dưới
gốc cây Bi để ở và sinh con đẻ cái, phát rừng làm nương, cày cuốc thung
lũng thành ruộng bậc thang, làm cọn (guồng) để lấy nước, thuần phục thú
rừng thành vật nuôi, lập nên mường bản. Nhớ ơn cây cứu mạng, họ lấy tên
cây đặt cho tên mường, hình thành nên vùng Mường Bi ngày nay, một vùng
núi rừng rộng lớn bao gồm nhiều xã thuộc huyện Tân Lạc. Và Lũng Vân là
nơi sinh sống cao nhất của Mường Bi.
Trưa
ở Lũng Vân, mặt trời bắt đầu ló rạng, nắng đã tràn xuống thắp sáng khắp
thung lũng, những thửa ruộng lúa mướt xanh vẫn còn đọng sương, nắng
chiếu xuống cả những ngôi nhà ven sườn núi vẫn nằm im lìm như những chú
mèo còn ngái ngủ. Thốt vui khi nhìn thấy vạt cải hoa vàng nho nhỏ trước
vài nếp nhà, bạn tôi xuống xe bấm máy lia lịa. Cả thung lũng mây hoàn
toàn yên tĩnh, không một bóng người, chỉ có những nếp nhà đứng đó, điều
duy nhất báo hiệu chủ nhà đi vắng là vài ba cây luồng vừa bằng cổ tay
được dùng làm then cài chắn ngay trước cổng. Cảm giác hoang mang và
thích thú cứ đan xen vào nhau. Hoang mang bởi ở đây vắng lặng quá, vắng
lặng nhưng không hoang lạnh, cứ như những nếp nhà ấy riêng dành cho ai
đó lỡ độ đường thì ghé vào dừng chân; thích thú bởi phong cảnh quả là
đẹp, đẹp như ở xứ sở “Bồng lai tiên cảnh” vậy.
Thú
vị nhất là những làn mây mỏng tang cứ là là bay ngang mình. Cứ thế, tôi
chạy đi chạy lại, hết nơi này đến nơi khác, cho đến khi được gọi đi
tiếp. Những thửa ruộng bậc thang đây rồi, ngay sát bước chân tôi. Gặp
một phụ nữ Mường gùi củi nặng, tôi ngỏ ý làm quen và xin chụp ảnh, nhưng
không thấy phản ứng gì, cứ lầm lũi mà đi. Có thể bà không hiểu được
tiếng Kinh hoặc do lạ, do nặng cũng không biết nữa. Sau đó, chúng tôi
gặp tổ điều tra dân số, được biết trên thung lũng cao ngút ngàn này có
tới 12 thôn xóm với gần 2000 khẩu, một anh trong đội cười “Đấy là số
liệu cũ, còn số liệu mới thì giờ chúng tôi mới bắt đầu điều tra đây!”.
“Đời sống của người dân có khá không anh?” “Trên đây cũng vừa ra khỏi dự
án 135 của Chính phủ, nhưng đời sống vẫn còn vất vả khó khăn về vật
chất lắm”, rồi anh lại tiếp “Được cái đời sống tinh thần thoải mái, khí
hậu trong lành, đây là một trong những nơi có tỉ lệ người sống thọ rất
cao” “sao em thấy ở đây toàn phụ nữ ra đồng vậy?” “bây giờ bình đẳng
rồi, phụ nữ chuyên việc đồng áng, còn đàn ông thì lên núi lên rừng”
“công việc điều tra có vất vả không anh?” “vất chứ, thôn xóm đều ở rải
rác trên các sườn núi, đi lại xa xôi mà có khi không gặp ai ở nhà”.
Thật
tiếc vì chỉ có kế hoạch đi trong ngày nên không có nhiều thời gian tác
nghiệp, đành chia tay mà lòng đầy luyến tiếc. Theo như dự định, chúng
tôi sẽ về bằng đường khác để thoả chí khám phá của anh bạn tôi. Con
đường dưới chân núi (gọi là chân núi, chứ thực tế đó là những thung lũng
cao vào loại bậc trung) này không những dài hơn mà còn gập gềnh khó
khăn hơn rất nhiều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét